Nghe “tiếng ve không mùa” nhận ra “trái tim phía cỏ”
Hưng vẫn nằm nguyên đó. Đã trên 20 năm (1983-2005). Một vệt nằm xuyên hai thế kỉ. 20 năm với bao nhiêu biến động tơi bời… nhưng hàng năm, ve vẫn gọi hạ về và cỏ vẫn “mọc âm thầm giữa nhớ và quên” (Thanh Thảo). Nằm đó để chống chọi với từng phút giây bệnh tật và nằm đó với nàng thơ, Hưng chênh vênh giữa hai bờ hư thực. Hư với thơ và thực vô cùng với bạo bệnh. Nhờ nàng thơ giải thoát nỗi đau cũng là hòa nỗi đau mình vào thơ. Mỗi nỗi đau êm ái. Hòa vào để bước từ bến thực đời đau sang bờ hư giải thoát.
Cái cuộc đời tôi đi tìm tôi của Hưng là một hành trình không cây số. Không phiêu lưu, lang bạt nơi cõi thật trần ai để tìm trong lánh đục đờ mình, để nghiệm đời mình; mà cuộc hành trình của Hưng là một cuộc kiếm tìm lặng lẽ không để lại dấu chân. Anh tự đào sâu vào lòng mình để làm cuộc du hành không nhân ảnh. Vì thế, có một cõi nhớ vơi đầy trong Hưng mà kỉ niệm vẫn còn hôi hổi nóng. Tuổi học trò như “tiếng ve không mùa” ra rả ngân trong suốt cuộc hành trình đầy ám ảnh. Và phượng, và bóng bàng, và áo nữ sinh, và sách vở học trò… cả một cái cõi vô tư đong đầy hồn nhiên “gió thưở sơ sinh”. Hồn nhiên đến trong văng vắt như một thiên đường. Thiên đường ấy giờ đã xa nhưng đối với Hưng vĩnh viễn là một thiên đường không có Chúa. Đó là khu vườn địa đàng mà mỗi lần đặt chân vào, Hưng nâng niu như sợ phút chốc vướng bụi trần, nó sẽ biến tan thành ảo ảnh:
“Dù đã cố nhón chân đi thật khẽ
Vẫn phập phồng sợ dẫm bóng bàng xưa"
(Bóng bàng xưa)
Nỗi “phập phồng” mà có lẽ chỉ tìm được ở Hưng. Vì Hưng trong sáng quá. Rời phổ thông bước vào giảng đường Đại học. Và sau đó… 20 năm trọng bệnh nằm vùi một chỗ, sống trong hoài tưởng của chính mình để làm cuộc hành trình thơ gian truân hơn mọi người làm thơ bình thường khác. Cái tuổi học trò trong cõi thơ Hưng cũng hoàn toàn khác. Đó là của những đứa bé nhà quê mà con “đường đi học” khúc khuỷu, bùn lầy, đầy “ổ chó, ổ gà” với:
“Mười cây số bốn mùa chân xuôi ngược
Manh áo nghèo mưa nắng bạc tóc hoe
Không ngăn nổi hồn nhiên chim sáo hót
Chiều vô tư ngõ đom đóm lập lòe”
(Đường đi học)
Có gì đó rất lạ xa với những điệu nhạc hiện đại của tuổi học trò nơi phố xá. Xa nhưng rất gần đối với bất kì ai trong cuộc sống hiện đại ngày nay đang hồi tưởng về quá khứ. Kẻ nào muốn tàn nhẫn cố vùi chôn vẫn không thể đủ đất để khỏa lấp, chôn vùi (đất ở phố phường bây giò đắt và hiếm lắm!) vì cái “hố kỉ niệm” gốc gác đời mình sâu “thăm thẳm”:
“Biền biệt mấy xuân rồi xa xứ
Áo cơm quần quật đến mệt nhòa
Cái đuôi mắt ấy còn đeo đẳng
Như nỗi buồn nhớ làng chẳng nguôi ngoai"…
(Thăm thẳm)
Vì thế, cú về với địa đàng tuổi thơ, Hưng lại gặp Làng, Một làng quê nghèo như bao làng quê khác. Ở đó có “hồn rơm vía rạ” dù dồn Hưng đập nhịp tim ở “phía cỏ” dịu dàng. Đừng cố timg trong thơ Hưng một âm hưởng hiện đại nào hết. Cái phía tâm hồn “tính bản thiện” vẫn ẩn sâu trong mọi dáng hình bề ngoài hiện đại của chính ta mà. Cả tập thơ Hưng chỉ chứa đầy hai không gian nghệ thuật (Không gian Trường và không gian Làng), và thấp thoáng ẩn hiện một không gian phố thị làm điểm đối lập. Nó như một hồi quang mơ hồ để dẫn về hai chỗ không gian chính:
“Em về phố nơi đủ đầy mọi thứ
Biết lấy làm chi tí đỉnh gọi quà
Đành gói gửi chút hương đồng gió nội
Để nhắc người luôn có một quê xa” !
(Quà quê)
Hơn ai hết trong tất cả mọi người làm thơ hiện nay, Hưng không cầu mong “hiện đại hóa” thơ mình theo xu hướng chung của thời đại. Hưng chỉ biết thể hiện một cách rõ ràng nhất, chân thành nhất cái cõi thơ riêng của mình bằng tiếng nói nội tâm vô thức của chính mình:
“Phượng vẫn đỏ như từ khi có phượng
Gió vẫn mềm tựa thưở gió sơ sinh”
(Bắt đền ai)
Vì Hưng biết dẫu có “hiện đại hóa” đến đâu, “đô thị hóa” đến bực nào thì phượng học trò muôn đời vẫn là bông phượng đỏ hồn nhiên cháy khát ước mơ như vốn dĩ tự hồn phượng vĩ. Và gió nữa! gió vẫn thế, mềm mại như thưở mới sinh ra trong trời đất vô thường. Chính vì thế, khu “vườn địa đàng” của thơ Hưng như mọt khu đền thiêng mà trong mô-tip của đời sống hiện đại hôm nay, có kẻ muốn cố quên nhưng lòng cứ hướng về:
“Mười năm hai mươi năm qua
Quê ngoại không ngừng ủ lửa
Mười năm hai mươi năm nữa
Nhớ về… vẫn ấm lòng ta”!
(Quê ngoại)
Cuộc sống đang dần dần đánh mất ngững vô tư vốn dĩ mà tạo hóa đã ban cho tuổi học trò. Những bài luận văn của học sinh hiện nay làm cho những nhà giáo dục văn chương Việt Nam choáng váng. Khoang dạy cho các em quá nhiều những vấn đề hiện đại (dù rất cần thiết) khi giáo dục truyên thông chưa đặt đúng vị trí cần phải có trong nền giáo dục một dân tộc. Tính cộng đồng và tính tự trị của văn hóa làng , xã Việt Nam chi phối mạnh mẽ đến tính cách con người Việt Nam. Hãy cho các em biết những ưu điểm và nhược điểm của nó để các em nhận thức được đâu là cái mạnh, cái yếu của chính mình. Đó là sức mạnh nội lực để thế hệ trẻ vững tin hơn trên bước dương đi tới những vấn đề hiện đại cần thiết.
Là một thầy giáo lại không được bước chân lên bục giảng vì bạo bệnh. Nhưng có lẽ cái nghiệp của mình nằm một chỗ mà vẫn cứ lo tuổi trẻ hôm nay đi lạc mất thiên đường:
“Đồng loại ơi! Đồng loại của tôi đâu?
Lẽ nào bạn lẽ nào em lột xác
Cánh đậu là hoa cánh rơi là rác
Phượng mùa xưa, ve hại cũ quên mình”
(Tiếng ve không mùa)
Hãy quay về với thiên đường thần tiên vốn dĩ của tuổi học trò, nghĩ về nguồn cội, quê hương, mẹ cha và những mối tình vô tư như gió,…Đây là những thông điệp của một người thơ. Thông điệp không mới mà cũng chẳng bao giờ cũ. Vì thế, về nghệ thuật, cũng có thể nói được rằng: thơ Hưng không mới mà cũng chẳng bao giờ cũ đi khi anh đang nằm một chỗ chống chọi với bệnh tật vừa đau đáu nỗi lo “ quên mất mộng mơ” của học trò mình
Quảng Ngãi những ngày rét đầu năm 2005
MAI BÁ ẤN