Hồ Bắc năm nay đã quá 70. Anh bộ đội quê xứ Kinh Bắc ngày ấy bởi yêu âm nhạc mà đã có một “Làng tôi” đặt bên cạnh “Làng tôi” của Văn Cao và “Quê em” của Nguyễn Đức Toàn. Cũng nhịp 3/4, cũng viết về một làng Việt kháng Pháp nhưng rõ ràng “Làng tôi” của Hồ Bắc tuy không có được sự cô đọng của Văn Cao, sự trữ tình của Nguyễn Đức Toàn nhưng lại có sự tơ non, mới mẻ trong giai điệu, báo hiệu một bút pháp riêng biệt của một nhạc sĩ khởi đầu thế hệ thứ ba (thế hệ chống Mỹ). Ngày ấy, bên cạnh “Làng tôi”, Hồ Bắc còn phỏng bài thơ “Bên kia sông Đuống” của thi sĩ đồng hương Hoàng Cầm. Bài hát đã được trình bày trang trọng trong cuộc đại trình diễn “Nửa thế kỷ bài hát Việt Nam” hồi tháng 3.1994.
Là một nhạc sĩ tự học, Hồ Bắc không ham số lượng. Anh viết thật chắt chiu, thật kỹ càng. Nhưng nếu kể gần hết những tác phẩm ấy, cũng thấy giai điệu Hồ Bắc đã thật thân thuộc với người mến mộ âm nhạc nhiều thế hệ đến thế nào. Từ “Dòng nước mát” có bà mẹ bao năm vất vả, đến “Gửi anh chiến sĩ thông tin trên đảo” có người lính hải quân quả cảm. Từ “Giữ biển trời Xô Viết Nghệ An” đến “Tiếng cồng Plây girăng”, “Sài Gòn quật khởi”, “Trên đường Hà Nội”, “Gửi Việt Trì thành phố ngã ba sông” và đặc biệt với nhịp điệu công nghiệp ở “Bến cảng quê hương tôi”. Những năm sau thống nhất, Hồ Bắc vẫn được ghi nhận trân trọng ở “Tổ quốc yêu thương”, “Hoa hồng trên điểm tựa”, “Tôi nghe khúc hát về thành phố Leningrat” nhói nhức như tuyết ném kể về một huyền thoại chống phát xít. Nhiều năm làm công tác biên tập âm nhạc ở Đài Tiếng nói Việt Nam, Hồ Bắc lặng lẽ, không khoa trương ồn ào trong sáng tác. Với anh, âm nhạc là chính đạo. Và anh chỉ còn biết dâng hiến hết mình.
Hợp xướng “Tổ quốc ta” được Hồ Bắc viết vào dịp kỷ niệm 15 năm thành lập nước (1960). Không có một tình yêu nồng nàn và chân thành với Tổ quốc mình thì dù có tài năng đến mấy cũng chỉ là để phô phang, khoe mẽ, hợm mình. Hồ Bắc thật tha thiết khi tả thiên nhiên, sông núi đất nước: “Kìa dải Trường Sơn uốn mình quanh ven bờ biển xanh...” hay “Hồng Hà, Cửu Long nước hoà chung vào biển Đông...”. Bốn bè hát cứ lúc phân tách lúc hoà hợp khiến cho tình yêu cứ dào dạt lên như biển sóng: “Tình quê hương tha thiết dừa xanh bên bóng cau đất nước ta ngàn năm lịch sử dài lâu”. Song bút pháp Hồ Bắc còn đầy cảm xúc khi tả về người dân Việt: “Non sông yêu dấu có những người dân cần lao yêu thương - Đã bao máu xương đổ xuống quê hương cho đồng lúa tốt...”. Và 40 năm trước, Hồ Bắc đã mơ ước một tương lai rực rỡ của một Tổ quốc VN điện khí hoá-công nghiệp hoá-hiện đại hoá: Kìa nhà sàn chênh vênh trên núi cao ánh sáng điện soi - quê nghèo tăm tối - nay đổi mới - tiếng ca rộn rã bước chân thoắt nhanh chợ ta áo hoa noọng cười với ta...”. Bức hoành tráng bằng âm thanh về Tổ quốc đã được bao thế hệ tuổi trẻ hát những năm hoà bình ở miền Bắc, hát những năm chống chiến tranh phá hoại ác liệt, hát giữa Trường Sơn thời “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Đã bao người từng hát bài này rồi vĩnh viễn ngã xuống như những người dân trong giai điệu Hồ Bắc.
Nhiều năm qua, do cơn sốt nhạc nhẹ, có lúc tưởng chừng “Tổ quốc ta” đã bị lãng quên. Nhưng sức sống của nghệ thuật đích thực thật vô biên. Trước khi “Tổ quốc ta” được biểu diễn trở lại bằng hình thức hợp xướng, ca sĩ Ngọc Tân đã từng dàn dựng ở một hình thức nhỏ hơn trong các chương trình của mình. Hình thức nhỏ nhưng trân trọng thì không nhỏ. Trong xu hướng phục hồi lại hình thức hợp xướng, dàn hợp xướng “Âm thanh Hà Nội” của những thanh niên yêu ca hát đã bước đầu lấy lại được gương mặt của thể loại này. Và một trong những sự khởi đầu ấy là cùng các diễn viên Nhà hát Nhạc Vũ Kịch Việt Nambiểu diễn thành công “Tổ quốc ta”. Ở lần trình diễn này, “Tổ quốc ta” còn được làm mới ở phần phối khí cho dàn nhạc giao hưởng của nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân.
Nguyễn Thuỵ Kha (Lao động)
Quốc An và những ca khúc viết về sinh viên

Ở tuổi 29, nhạc sĩ trẻ này đã có nhiều sáng tác được giới trẻ yêu thích. Quốc An nói rằng với tác phẩm nào, anh cũng muốn gợi nhớ lại quãng thời gian còn ngồi trên ghế nhà trường.
Sau khi tốt nghiệp Khoa Guitare Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật TP HCM, anh ở lại trường làm giáo viên phụ giảng. 6 năm qua, An tập tành sáng tác, ban đầu chỉ dám viết nhạc, ghi lại những giai điệu mình thích, còn phần lời là do tập thể làm. Ca khúc đầu tiên của anh, "Hôn em một lần", được bạn bè cổ vũ nhiệt tình. Đến nay, nhạc sĩ đã có nhiều ca khúc được yêu thích: Trái tim thơ ngây (Nhóm 1088, Minh Thuận từng hát), Mãi là giấc mơ (Lam Trường), Không gia đình (Thanh Thảo)... Ấn tượng nhất phải kể đến Cây đàn sinh viên bình chọn Giải Mai Vàng lần VII qua tiếng hát của ca sĩ Mỹ Tâm.
Quốc An cho biết: “Cây đàn sinh viên là câu chuyện được diễn đạt bằng văn xuôi, lấy ý tưởng của một sinh viên Đại học Kỹ thuật TP HCM tên là Thuận Thiên. Ngay từ khi mới công bố, ca khúc đã được các bạn trẻ đón nhận nồng nhiệt".
Quốc An cũng đã thành lập nhóm Tam ca KTX biểu diễn phục vụ sinh viên ở ký túc xá các trường đại học. Anh tâm sự: "Chúng tôi muốn mang tiếng hát của mình góp phần đem lại đời sống tinh thần lành mạnh cho các bạn sinh viên".
Nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Thiện
Ông sinh ngày: 20/11/1951. Quê quán: Sài Gòn. Tốt nghiệp Khoa Sáng tác hệ Ðại học 5 năm, Nhạc viện TP.HCM, năm 1989. Hiện là bác sĩ khoa Răng Hàm Mặt, Viện Răng Hàm Mặt.
Ông sáng tác âm nhạc từ thời sinh viên, nhưng sau giải phóng năm 1975, tên tuổi ông mới được biết đến rộng rãi trong giới trẻ hâm mộ nhạc. Những ca khúc Nguyễn Ngọc Thiện trữ tình và trẻ trung, thiên về đề tài tình yêu và tuổi trẻ.
Ông đã xuất bản hai tập ca khúc và một số bài hát được phát hành trong băng âm thanh và băng video. Nguyễn Ngọc Thiện là thành viên nhóm "Những người bạn". Ðã xuất bản Tập nhạc Nguyễn Ngọc Thiện và kèm băng cassete tác giả (DIHAVINA và Hội nhạc sĩ VN).
Tác phẩm đầu tay: Ơi cuộc sống mến thương (1979)
Các tác phẩm được yêu thích: Này người yêu nhỏ xinh (1989); Ngọn lửa trái tim (1981); Như khúc tình ca (1982); Người mẹ (1984); Chia tay tình đầu (1987); Kỷ niệm mùa hè (1989); Cô bé dỗi hờn (1991); Nếu em là người tình (1992); Tìm đâu (1993); Thôi anh hãy về (1994); Cơn mưa lao xao...
Sinh năm 1947 tại một làng quê thuộc tỉnh Hà Tây, Trần Tiến là môt trong những nhạc sĩ được công chúng và đồng nghiệp đánh giá cao trong lĩnh vực nghệ thuật. Những ca khúc của anh thường mang hơi hướng hiện đại nhưng đầy chất dân tộc, quê hương.
Hình ảnh về một lãng tử du ca đồng nội có vẻ như đã xa vời, mặc dù không ai quên. Trần Tiến nói về âm nhạc của mình: "... Tôi học hành trung bình, thích lang thang mơ mộng. Lúc đầu tôi muốn trở thành một nhà khoa học. Gia đình sa sút, tôi phải bắt đầu lăn lộn làm việc như bất kỳ cậu bé con nhà nghèo nào khác. Tôi đi làm hậu cần trong một đoàn ca nhạc, rồi làm văn công, trở thành một ca sĩ nổi tiếng vào những năm 65-70. Sau đó, tôi đi lính, và bắt đầu sáng tác. Bài hát đầu tay của tôi được giải của Hội nhạc sĩ. Năm 72 tôi vào trường âm nhạc học khoa sáng tác. Bài hát đầu tiên là bài Bài ca thanh niên nơi tiền tuyến, bài thứ hai là Cô gái Sầm Nưa xinh đẹp, một bài hát mà Lào rất thích. Sau năm 75 tôi vào Sài Gòn, tôi được nghe nhạc Trịnh Công Sơn và nhiều nhạc sĩ khác. Tôi nhận ra được rằng tiếng nói con người có tác động mạnh đến con người, dù bằng nhạc không lời hay có lời."
"Trong âm nhạc tôi chỉ có một con đường, tôi đã đi theo con đường ấy từ khi khởi đầu cho đến bây giờ. Hồi đi học ở trường âm nhạc, bộ bốn chúng tôi gồm Tôi, Dương Thụ, Phó Ðức Phương, Nguyễn Cường. Chí hướng của chúng tôi là tập trung vào sự sáng tạo trong âm nhạc. Âm nhạc từ hải ngoại, nhạc Hồng Kông, rồi nửa Hồng Kông, nhạc Tây rồi gì gì nữa... thì tôi vẫn đi một con đường".
Đám văn nghệ sĩ thường đùa: "Trong làng nhạc có 4 ông tướng mạo dị thường. Trịnh Công Sơn giống mèo, Trần Tiến giống sư tử, Thanh Tùng giống kỳ lân, còn cậu Đại ạ, trông như cáo ấy!", Đại chẳng giận, cười xoà. Nụ cười là ưu điểm lớn nhất trên khuôn mặt anh.
Sinh ra trong một gánh hát. Lang thang theo cha từ nhỏ, đã ngậm đủ trong hồn vốn văn hoá dân gian Bắc Bộ, đặc biệt là chèo. Sự bất thường, biến báo nhịp phách, giai điệu trong bài hát của anh cũng từ đó mà ra cả. Mạch nguồn ấy thấm thía, nuôi dưỡng, và anh chắt chiu những báu vật của mình để đền đáp. Báu vật ấy là âm nhạc.
Những năm đầu thập kỷ 80, Đại còn là sinh viên sáng tác Nhạc viện Hà Nội, căn phòng tập thể gần 30 m2 lúc nào cũng rộn ràng tiếng nhạc rock. Nơi đó, anh chia sẻ không gian với 4, 5 bạn học khác. Sau này, có người nhanh chóng trở thành nhạc sĩ tên tuổi, nhưng cũng có người bặt vô âm tín. Xóm giềng gọi anh là Lý Cai (nhân vật của phim Ván bài lật ngửa). Gã Lý Cai lúc nào cũng mũ mão lụp xụp, đi về như cái bóng, luôn bị người ta cho là lập dị. "Khổ thế đấy. Hình như ai cũng ác cảm với hình thức của mình. Hồi mình ở khu tập thể đó, cái Hà Trần còn bé xíu. Má hồng, nơ hồng, váy hồng lũn cũn chạy qua chạy lại. Ai trông thấy cũng đuổi theo cấu một cái vì nó béo tròn xinh lắm!" Cũng chẳng ngờ được là con bé anh thường bẹo má ấy lại trở thành nữ ca sĩ anh tin cậy giao phó CD đầu đời: Nhật thực.
Sau thập niên 90, Ngọc Đại thành lập Trung tâm Thời gian, quy tụ đầy đủ những nhạc công sừng sỏ hai miền Nam - Bắc. Thế là từ một nhạc sĩ xuềnh xoàng trở thành bầu show thứ thiệt. Ban nhạc cùng anh "đánh Đông dẹp Bắc" một thời gian dài, với những gương mặt như Ái Vân, Lệ Quyên, Thanh Lam, Hồng Nhung.
Thời kỳ mở cửa, Ngọc Đại là một trong những người tiên phong phát triển thể loại nhạc nhẹ cùng Trần Tiến, Dương Thụ, Nguyễn Cường. Đáng ra thì anh có thể nổi tiếng lâu rồi, vậy mà đến giờ vẫn nhì nhằng. Bạn bè giải thích: "Có lẽ vì gã chơi ngông, đi quá xa, quá sớm. Kiểu của Đại có thể gọi là người ươm cây trước vụ nhưng lại xơi trái nẫu".
Cái tên Đại đúng với con người anh: rộng lượng, hào phóng với bạn bè, lúc nào cũng "xông xênh" dẫu chỉ còn vài xu đáy túi. Anh đến đâu ở đó ầm ĩ. Mới làm một CD mà huyên náo suốt từ đầu năm đến giờ. Rồi lại thêm huyên náo khi Nhật thực hoàn thành rồi, lại buộc phải sửa ca từ của một số ca khúc.
Hiện đại, lạ, dân tộc, bản địa là những từ anh ưa dùng để khuếch trương lăng kính của mình. Nhưng thật ra chỉ hàm chứa một khát vọng đơn sơ là bộc lộ bản thể trong âm nhạc, và được âm nhạc ghi nhận như một người tôn vinh vẻ đẹp của nó. Đại lập gia đình sớm và chia tay sau hơn mười năm chung sống. Đại suy sụp nhưng chỉ nhỏ nhẹ: "Cô ấy rất tốt, dù không hiểu mình".
Nhạc sĩ Văn Cao - Tác giả Quốc ca
Sinh ngày: 15-11-1923. Mất ngày: 10-07-1995. Nhạc sĩ Văn Cao đã hoạt động hăng say cho cách mạng từ trước Cách mạng Tháng Tám, người đã viết theo yêu cầu của cách mạng một bài hát cho Trường quân chính kháng Nhật: Bài Tiến quân ca. Tháng 11-1944, bài hát được Văn Cao tự tay khắc in trên báo Độc lập, và khi về Hà Nội, một hôm qua phố Mai Hắc Đế, ông nghe có người chơi đàn măng-đô-lin bản nhạc ấy. "Tôi dừng lại và tự nhiên thấy xúc động, có thể những người cùng khổ mà tôi đã gặp trên bước đường cùng khổ của tôi, lúc này đang cầm súng và đang hát" (Trích hồi ký "Tại sao tôi viết Tiến quân ca").
Ngày 17-8-1945, trong cuộc mít-tinh của nhân dân Hà Nội, lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên trên Nhà hát lớn và vang lên tiếng hát "Tiến quân ca", Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn bản nhạc ấy làm Quốc ca cho người Việt Nam mới và sau đó đã được Quốc hội chính thức phê chuẩn. Anh vệ quốc quân, chị cán bộ trên núi rừng Việt Bắc, các má trong bưng biền Nam Bộ, người tù Côn Đảo, Phú Quốc, Tổng Nha, Phú Lợi, Thừa Phủ, mỗi lần hát Quốc ca là hát lên hồn thiêng sông núi, để đi đến hy sinh mà không tiếc thân mình: "Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước. Đứng đều lên gông xích ta đập tan".
Nhắc đến Văn Cao là nhắc đến Tiến quân ca hùng tráng và bất diệt. Con người nhỏ nhẹ hiền từ ấy chứa trong hồn mình khát vọng và tâm huyết của cả một dân tộc nô lệ đang sắp sửa vùng lên. Nửa thế kỷ đã qua, đến hôm nay mỗi khi nghe khúc nhạc ấy vang lên, ta lại thầm cảm ơn Văn Cao, người đã viết cho dân tộc khúc ca hùng tráng ấy.
Văn Cao sinh ngày 15-11-1923. Vào năm 1939, 16 tuổi, ông viết Buồn tàn thu rồi sau đó là Thiên thai (1941), Bến xuân (1942), Cung đàn xưa (1942); Suối mơ (1943), Trương Chi (1943). Một dòng suối nhạc tình trào tuôn từ trái tim của chàng trai rất nhát gái, chưa hề được yêu, chưa hề được nắm tay một người con gái nào (Tâm sự của ông trong phỏng vấn ngày 28-7-1993)). Đó có lẽ cũng là một lối thoát ra khỏi những bế tắc của một thanh niên mất nước nhưng đầy khát vọng. Thế giới nhạc và lời thơ ấy tuy buồn, nhưng đó là cái buồn trong sáng, thơ ngây, không chút vẩn đục, tục lụy. Cũng không bài tình ca nào của ông buồn da diết suốt bài, mà nhịp luôn biến đổi khi buồn, khi ai oán, khi rít rít, khi lâng lâng nhẹ nhàng, phối hợp với lời thơ của thi sĩ Văn Cao hoàn chỉnh trong từng tác phẩm một. Chính vì thế mà đến ngày nay, những tác phẩm ấy vẫn có thể làm say lòng người và nâng hồn người lên một thế giới tinh khiết. Thiên thai và Trương Chi là những đỉnh cao trong dòng nhạc lãng mạn nhưng cũng chính từ những đỉnh này, Văn Cao đã dứt khoát đi vào cách mạng. Thiên thai là một giấc mơ giữa cuộc đời ô trọc lúc đó, còn Trương Chi là câu chuyện tình tan vỡ giữa một nghệ sĩ và một cô gái quý tộc và chính Văn Cao đã cảm thấy sự phân cực xã hội đã ảnh hưởng đến tình yêu như thế nào: "Đàn đêm thâu... trách ai khinh nghèo quên nhau"...
Bên cạnh thế giới nhạc lãng mạn là những bài hát yêu nước tràn đầy khí phách: Gò Đống Đa, Thăng Long hành khúc. Những bài ca hâm nóng nhiệt huyết của cả một thế hệ và đưa đến Tiến quân ca, Sông Lô, Tiến về Hà Nội sau này.
Âm điệu lãng mạn đã đưa Văn Cao đến thế giới của tình ca, nhưng cũng chính đôi cánh lãng mạn ấy cộng với nhiệt huyết yêu nước đã nâng hồn ông lên những hành khúc gọi hồn nước, gọi hồn thanh niên một thời: "Ôi Thăng Long, ôi Thăng Long, ôi Thăng Long ngày mai xây đắp dưới vinh quang bằng chí khí anh hùng..."
Văn Cao, con người mơ mộng ấy thả hồn mình bay xa thực tại khi làm bài hát: Hải quân Việt Nam, Không quân Việt Nam vào năm ấy. Cái tình của ông đối với quân đội, với cách mạng, khát vọng của ông đã làm ông đi trước thực tế đến vài chục năm. Rồi kháng chiến toàn quốc, Văn Cao lên Việt Bắc, ở đó có Làng tôi, Ngày mai... những ca khúc thắm đượm tình yêu thương đối với làng quê rơm rạ, làng quê du kích... Trái tim lãng mạn xưa đã mở ra cùng một thế giới cảm xúc, nó khác với Bến xuân và Suối mơ của giấc mơ huyền ảo xưa. Bây giờ là chiến tranh, là chiến trận, là hy sinh mất mát, là tình cảm của nhân dân. Nhạc của ông giờ đây ngát đầy hương lúa mới, những cánh đồng quê trong máu lửa, nó là bản "giao hưởng đồng nội" trong tâm hồn nhạc sĩ.
Ngay trong những năm đầu kháng chiến, Văn Cao đã mơ ngày quân ta tiến về Hà Nội. Phải 5-6 năm sau, điều mơ ước ấy mới trở thành hiện thực. Nghệ thuật kỳ diệu, bằng giấc mơ, nó đã sáng tạo ra thực tại của nó, và ở một nghệ sĩ lớn thì thực tại nghệ thuật và thực tại cuộc sống luôn bổ sung nhau, chan hòa cùng nhau: "Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về. Như đài hoa đón mừng nở năm cánh đào chảy dòng sương sớm long lanh"...
Nhưng tất cả những bản nhạc ấy đều chỉ là những ca khúc nhỏ bên cạnh bản Sông Lô hoành tráng. Mở đầu bản nhạc Văn Cao đã đưa ta vào cái không khí đầy chất thơ huyền thoại của Việt Bắc: "Sông Lô sóng ngàn Việt Bắc, bãi dài ngô lau, núi rừng âm u. Thu ru bến sóng vàng, từng nhà mờ biếc chìm một mầu khói thu"... Tiếp đó là một sông Lô kháng chiến và kháng chiến đã chuyển nhạc từ nét chậm rãi, mênh mang đến dồn dập, mãnh liệt: "Vui hát ca òa vui hát ca, hòa dân buông lưới... Đời vun vút lên, đời vui sướng về... Rung trong bao hương đồng mừng một mùa chiến công". Rồi đến đoạn cuối, dòng sông Lô lại trôi đi trong một nhịp điệu khoan thai, êm đềm, tha thiết: Dòng sông Lô trôi. Dòng sông Lô trôi, Mùa xuân tới, nước băng qua ngàn, nước in ven bờ xanh in bóng tre. Dòng sông Lô trôi...".
Năm đó là năm 1947, Văn Cao mới 24 tuổi. Sông Lô là một trường ca của nhạc, của thơ và của sắc mầu hội họa. Sông Lô là một thể nghiệm thành công về một nhạc cảnh mà hơi nhạc, như ông đã tự nhận, có ảnh hưởng chất hùng tráng của nhạc Bethoven. Sông Lô đã đi vào lịch sử âm nhạc Việt Namnhư một chiến công lớn của nghệ thuật bên cạnh chiến công lớn của quân dân ta trong thời chống Pháp. Và nó vĩnh viễn ở lại trong lòng người.
Văn Cao đa tài, đa cảm, ông có khát vọng muốn thành công ở nhiều lĩnh vực: nhạc, thơ, họa. Thơ của ông từ Chiếc xe xác đi qua phường Dạ Lạc trở về sau có nhiều nét biến đổi mới, thể hiện một sự tìm về nội tâm. Hội họa của ông, đặc biệt là tranh minh hoạ có phong cách riêng. Nhưng nhắc đến Văn Cao, người ta nhắc đến nhạc. Trong nửa thế kỷ qua, ông là nhạc sĩ lớn.
Ông ra đi, thế giới nghệ thuật của ông vẫn còn đó để nhiều thế hệ còn đắm say, còn tiếp tục yêu ông, một tình yêu sáng trong, cao cả như tâm hồn và âm nhạc của ông.
"Tôi muốn mình hoà với thiên nhiên... Không oán ghét không gây hận sầu..."
Trong phong trào nhạc trẻ ở miền Nam thập niên 1970, xuất hiện ban nhạc trẻ Phượng Hoàng với hai nhạc sĩ Lê Hựu Hà và Nguyễn Trung Cang làm nòng cốt. Điều đặc biệt của ban nhạc này là tự sáng tác và biểu diễn thuần nhạc Việt Nam, không hát nhạc ngoại quốc. Riêng với nhạc sĩ Lê Hựu Hà, những ca khúc như: Tôi muốn, Phiên khúc mùa đông, Yêu người yêu đời... đã đóng góp cho sự phát triển của dòng nhạc trẻ Việt Nam qua sự sáng tạo nghệ thuật của anh.
Nhạc sĩ Lê Hựu Hà, sinh năm 1946, người mê nhạc Sài Gòn từng biết đến Lê Hựu Hà lần đầu tiên qua ban nhạc Hải Âu tại đại hội nhạc trẻ Taberd năm 1965, và anh nhanh chóng nổi tiếng từ phong trào nhạc trẻ những năm 1970 qua ban nhạc Phượng Hoàng, lúc ấy đã tạo được vóc dáng riêng vừa tiếp thu phong cách nhạc trẻ phương Tây, vừa phảng phất âm hưởng dân ca Việt Nam. Những bài hát "Tôi muốn", "Hãy ngước mặt nhìn đời"... đã làm thay đổi hẳn cả môi trường âm nhạc vốn sùng ngoại của giới trẻ. Sau Phượng Hoàng, anh cùng bè bạn thành lập ban nhạc Mây Trắng, rồi sau 1975 là ban Hy Vọng, Phiêu Bồng ra đời trong phong trào ca khúc chính trị… Sự tươi tắn và sôi động qua những ca khúc của anh được nhiều bạn trẻ mến mộ.
Lê Hựu Hà tự học nhạc từ nhỏ, anh được nhiều nhạc sĩ đi trước đánh giá là một trong những người Việt hoá nhạc trẻ Âu Mỹ đầu tiên, những năm gần đây, Lê Hựu Hà trở lại với nhạc trẻ, tiêu biểu là ca khúc "Vào hạ" - tác phẩm đã đưa Tam ca Áo trắng trở thành nhóm nhạc hàng đầu của VN.
Lê Hựu Hà để lại một sự nghiệp chỉ khoảng trên 50 ca khúc, nhưng không vì thế mà sự tài hoa và táo bạo của anh chìm khuất. Sáng tác của Lê Hựu Hà ứng dụng giai điệu, tiết tấu hiện đại của nhạc trẻ phương Tây mà vẫn mang hơi thở rất VN, đưa thang âm ngũ cung VN vào ca khúc (Tình ca Việt Nam)... Lê Hựu Hà cũng là một trong những nhạc sĩ trong nước khá chuyên tâm trong việc chuyển dịch, biên soạn lời Việt cho các ca khúc quốc tế (anh đã viết lời Việt khoảng gần 100 ca khúc, nổi tiếng có bản Đồng xanh, Những lời dối gian...).
Nhạc sĩ Huy Du đã ngoài 70 nhưng vẫn còn sức sáng tác, nhạc Huy Du sẽ còn đi mãi trên dặm dài đất nước. Âm nhạc - nhất là ca khúc - của ông có một vị trí lớn trong lịch sử âm nhạc cách mạng VN, rất xứng đáng được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. GS -TS Huỳnh Khái Vinh đã viết về những kỷ niệm với Huy Du không chỉ với tư cách bè bạn mà với cảm nhận của một khán giả, thính giả yêu mến âm nhạc của người nhạc sĩ tài danh này.
Tôi là người ít hiểu biết về âm nhạc, nhưng rất thích nghe những bài hát chiến đấu của các nhạc sĩ viết về hai cuộc chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc. Trong kháng chiến chống Mỹ, tôi làm biên tập viên Báo Văn Nghệ, sau đó có nhiều năm ở nước ngoài, và tất nhiên có điều kiện đi nhiều, có phương tiện để nghe nhạc. Lúc bấy giờ nhạc Huy Du đến với tôi một cách sâu sắc, đậm đà tình cảm yêu nước. Tôi chưa một lần gặp Huy Du, nhưng nghe những bài hát như: "Trên đỉnh Trường Sơn ta hát", "Nổi lửa lên em", "Bạch Long Vĩ đảo quê hương", "Việt Nam trên đường chúng ta đi", "Anh vẫn hành quân", "Cùng anh tiến quân trên đường dài"... của anh, tôi thấy lòng mình cứ hừng hực một khí thế của một người công dân có trách nhiệm với đất nước. Từ đó, tôi có một mong ước là tìm gặp Huy Du. Rồi một buổi chiều vào cuối năm 1983, chúng tôi gồm: Các anh Vũ Cận, Phan Kế An, Hồ Ngọc Đại, Trung Sơn, Ngô Mạnh Lân, Hoàng Ước và tôi đang ngồi quanh một chiếc bàn tròn trong CLB Ba Đình, bỗng thấy một người tầm thước, tóc bạc, mặt sáng, có đôi mắt rất tươi dường như lúc nào cũng cười, bước vào khu vực chúng tôi. Cả bàn đều đứng dậy bắt tay thân thiết đầy thiện cảm, và tôi có cảm giác mọi người ngồi đây rất yêu mến, rất quý trọng anh. Nhiều người không biết hát, nhưng đều dễ thuộc nhạc Huy Du, có người thuộc dăm ba câu, có người thuộc cả bài, có người thuộc nhiều bài. Điều đó sau này tôi đã bắt gặp ở nhiều nơi.
Dần dần tôi khám phá ra, người nhạc sĩ này ngoài tính tình rất đáng yêu, trung thực, dễ gần, nhạc của Huy Du vừa có tính cao sang vừa có tính quần chúng rất cao. Đó là cảm nhận của tôi. Có lần, GS -TS Đình Quang đi tắcxi xuống đón anh Huy Du, tôi và sau đó đón nhà văn Tô Hoài đến cửa hàng Sinh Châu ở phố Lý Thường Kiệt để ăn cá hồi. Cố nhiên được ăn cá hồi, uống rượu, thì rất thích, điều đó không quan trọng mà chính không khí tối hôm đó làm tôi vừa ngạc nhiên, vừa khó quên. Đó là không khí có một không hai. Chúng tôi đang vào cuộc nghe nhau những chuyện mới thì thấy một đoàn người, có nhà thơ Nguyễn Duy, nhà báo Đỗ Quang Hạnh và nhiều kỹ sư, bác sĩ, nghệ sĩ ở các bàn khác ở trong phòng ăn đó và các phòng bên cạnh sang cắt ngang câu chuyện của chúng tôi. Họ chào anh Huy Du trước và bảo ở chỗ này thì chỉ có âm nhạc là hợp, vậy nên trước tiên chúc mừng sức khoẻ anh Huy Du và các anh, sau đó sẽ hát một số bài của Huy Du. Tôi hết sức ngạc nhiên, bởi vì tôi biết rõ, các anh không phải là ca sĩ, làm các nghề khác nhau, nhưng rất nhiều người đã thuộc và đã hát được nhiều bài hát của Huy Du kể cả những bài nổi tiếng đầu tiên của anh thời chống Pháp... Chứng tỏ nhạc Huy Du đã thấm sâu vào họ đến mức mà họ luôn muốn hát, muốn bộc bạch, muốn phô diễn. Và cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên này thành cuộc liên hoan đặc biệt hát những bài hát Huy Du kéo dài đến một giờ khuya.
Một lần khác, anh Phan Hồng Giang, lúc đó (1999) là Viện trưởng Viện Văn hoá nghệ thuật có mời các anh: Tô Hoài, Huy Du, Hồ Bắc, Đình Quang, Xuân Sách, Từ Sơn và tôi đến ăn ở quán Pacific cạnh hồ Ngọc Khánh. Câu chuyện đang rôm rả, bỗng nhiên ông chủ quán tiến thẳng đến bàn ăn chúng tôi, lễ phép nói: "Nhân viên em vừa báo cho em biết, trong bàn này có nhạc sĩ Huy Du, đến hôm nay mới được trực tiếp gặp mặt, vì vậy buổi tiệc hôm nay em xin phép được chiêu đãi". Lúc ấy tôi liếc mắt nhìn sang Huy Du và thấy anh rất xúc động. Mà không xúc động sao được. Ở gần Huy Du hơn 8 năm tôi khám phá ra nhiều điều hay khác nữa, có những chuyện như huyền thoại về người nhạc sĩ này. Nhưng tôi muốn xin kể thêm một chuyện nữa mà hoạ sĩ Đào Đức đã nhiều lần kể cho tôi nghe. Có một buổi chiều Huy Du và Đào Đức đi dạo phố Thái Hà, có hai chị ở tuổi trung niên ngồi nướng ngô để bán. Huy Du và Đào Đức có dáng tầm tầm như nhau về chiều cao và khổ người nên nhìn từ xa dễ lẫn lộn. Hai cô bán ngô nướng đố nhau: Trong hai ông này ông nào là ông Huy Du. Một cô thì chỉ ông đi bên trái (HD), một cô thì chỉ ông đi bên phải (ĐĐ). Nhưng khi hai ông đến gần, một cô mạnh dạn hỏi: "Chúng tôi biết một trong hai bác là nhạc sĩ Huy Du, vì thường xem trên tivi, chưa gặp mặt bao giờ, vì vậy xin hỏi ai là bác Huy Du?". Khi Đào Đức chỉ Huy Du nói: "Đây chính là Huy Du". Cô đoán đúng đã cười đầy vẻ viên mãn, và bắt chặt lấy tay nhạc sĩ. Vài câu chuyện mà tôi được biết càng khẳng định sự nhận định của tôi: Huy Du là một nhạc sĩ tài ba, nhạc của ông không chỉ đi sâu vào nhiều đối tượng khán, thính giả rất rộng, rất sâu mà còn mang tính chất cao sang, rất trang trọng, đầy sức hấp dẫn.
Tôi nghĩ rằng, nhạc Huy Du sẽ còn sống mãi trong lòng hàng triệu người hôm nay và kể cả sau này.
GS-TSKH Huỳnh Khái Vinh (Theo Lao động)
Thời gian qua, các ca khúc Nếu phôi pha ngày mai, Tình thơ, Mưa buồn, Một ngày xa xăm, Bên em mùa xuân, Hối tiếc, Phố hoa, Những ngày xưa yêu dấu... liên tục có tên trong bảng xếp hạng Top ten Làn Sóng Xanh. Đó là những ca khúc mang giai điệu trầm buồn, sâu lắng được viết lên bằng những cảm xúc rất thật của chàng nhạc sĩ trẻ Hoài An.
Hoài An đam mê âm nhạc từ nhỏ. Cạnh nhà An có một anh chơi đàn rất giỏi, anh khuyến khích An học đàn nhưng với điều kiện phải giải được những bài toán mà anh ra đề thì anh mới dạy đàn. Nhờ sự chỉ dạy tận tình của anh nên khi Hoài An được ba mẹ chính thức cho đi học đàn ở Nhà văn hóa, Hoài An đã nắm được một số kiến thức cơ bản nên học rất mau tiến bộ.
Năm học lớp 10 trường THPT Trưng Vương (TPHCM), Hoài An bắt đầu tập tành sáng tác. Ca khúc đầu tay mang tên Nhà Trưng Vương đã được chọn đăng trên báo Mực Tím. Sang lớp 11, 12, Hoài An tham gia vào ban nhạc Sóng Xanh, đồng thời sáng tác một số bài nhạc Rock tham gia vào các sân chơi của HS - SV. Khi thi đậu và khoa Tin học - Đại học Văn Lang, Hoài An vẫn cùng ban nhạc Sóng Xanh hoạt động đều đặn. Năm 1998, An tham gia lớp sáng tác âm nhạc của Hội Âm nhạc TPHCM, sau đó cùng với ban nhạc Sóng Xanh ra Hà Nội tham gia Liên hoan Ban nhạc Sinh viên toàn quốc và đoạt giải 3.
Những bài hát của Hoài An được ghi âm đầu tiên là Sài Gòn đêm mưa, Nếu trong album Nhạc trẻ Sài Gòn do Bến Thành Audio sản xuất. Nhưng phải nói rằng, chính những ca khúc lọt vào Top ten Làn Sóng Xanh mới thực sự mở ra một chân trời mới trong lĩnh vực sáng tác của Hoài An. Tính đến nay, Hoài An đã góp mặt trong hơn 20 album. Nhiều album gây được dấu ấn với khán giả như Tình yêu khó quên (Bến Thành Audio), Nếu phôi pha ngày mai, Bờ bến lạ, Phố hoa, Hối tiếc, Những ngày xưa yêu dấu (Kim Lợi Studio)... Ước mơ lớn nhất của Hoài An là thực hiện được một album riêng.
Ông còn có bút danh Huy Quang. Sinh ngày 11/11/1924, quê ở Ðà Nẵng, hịên cư trú tại Tp.HCM. Ông bắt đầu hoạt động âm nhạc từ những năm 40, trong nhóm tân nhạc. Sau Trầu cau, sáng tác của ông được biết rộng rãi là bài Ðoàn Giải phóng quân viết cuối năm 1945. Ðây là một ca khúc có giá trị trong giai đoạn đầu khởi nghĩa, cổ vũ tinh thần đấu tranh CM, có ấn tượng rất sâu đậm trong mọi tầng lớp nhân dân.
Trong kháng chiến chống thực dân xâm lược Pháp, ông gia nhập quân đội, công tác ở Liên khu V, viết một số ca khúc, như Nhớ ơn Hồ Chủ Tịch, Quê tôi ở miền Nam, Mùa đông binh sĩ, Bài ca Thanh niên tuyên truyền xung phong...
Năm 1955, sau khi tập kết ra Bắc, ông công tác ở Ban Nhạc Vũ, Hội Văn nghệ VN. Năm 1957, khi thành lập Hội nhạc sĩ VN, ông được cử vào Ban chấp hành là Uỷ viên Thường vụ và công tác tại Hội. Tháng 12/1964, ông vào chiến trường Trung Trung Bộ, ở trong Ban Văn nghệ khu. Bản hành khúc Ra tiền tuyến với bút danh Huy Quang đã là giai điệu thôi thúc những người lính Khu V ngày ấy. Sau khi thống nhất đất nước, ông chuyển về Hội âm nhạc TP.HCM làm việc và sáng tác.
Âm nhạc của ông có giai điệu trau chuốt, trữ tình, ngay cả trong thể loại hành khúc như Cuộc đời vẫn đẹp sao, Hành khúc ngày và đêm (Thơ Bùi Công Minh). Ông có nhiều thành công khi viết về đề tài tình yêu đôi lứa trong tình cảm chung của dân tộc: Tình trong lá thiếp, Những ánh sao đêm, Bóng cây Kơ-nia (thơ Ngọc ánh), Anh ở đầu sông em cuối sông (thơ Hoài Vũ), Sợi nhớ sợi thương (thơ Thuý Bắc), Thuyền và biển (thơ Xuân Quỳnh).
Ông còn là tác giả những bài hát cho lứa tuổi thiếu nhi được yêu thích như: Nhớ ơn Bác, Ðội kèn tí hon, Những em bé ngoan... Phan Huỳnh Ðiểu là một trong những tác giả tân nhạc đầu tiên và bút pháp vẫn sung sức cho đến tận bây giờ. Ông là một trong những nhạc sĩ đàn anh, có rất nhiều đóng góp xứng đáng.
Ðã xuất bản Tập ca khúc Phan Huỳnh Ðiểu và nhiều Album Audio, Video.
Ông sinh năm 1928, quê ở Hải Lăng, Quảng Trị. Trần Hoàn tham gia hoạt động âm nhạc trong kháng chiến chống Pháp và đã có những sáng tác nổi bật trong thời kỳ ấy như Sơn nữ ca, Lời người ra đi, Con trâu kháng chiến, Bà Ba... Sau ngày hòa bình lập lại 1954, Trần Hoàn về làm giám đốc Sở văn hóa Hải Phòng và ông vẫn tiếp tục sáng tác. Bài "Xin mời anh chị về thăm Hải Phòng" khép lại 10 năm gắn bó với Hải Phòng. Sau đó, Trần Hoàn vào chiến trường Bình Trị Thiên với bút danh Hồ Thuận An. Ông đã để lại những giai điệu khó quên đó là: Một mùa xuân nho nhỏ (Phỏng thơ Thanh Hải), Chào mùa xuân, Khúc hát người Hà Nội, Ðêm Hồ Gươm... Trong cuộc trò chuyện cởi mở, nhạc sĩ Trần Hoàn có những đúc kết về công việc quản lý văn hóa suốt nhiều năm qua của mình, đồng thời nói lên những quan điểm về sáng tác âm nhạc hiện nay.
Hỏi: Một nhạc sĩ như ông vẫn muốn sáng tác những ca khúc mới cho lớp trẻ, nhưng trong sự thay đổi cách thể hiện tình cảm như hiện nay thì ông có tin rằng những bài hát của ông sẽ có một sức sống nào đấy với công chúng tương lai hay không?
Trả lời: Khó! Bây giờ nếu chúng ta ngồi phê phán thẩm mỹ của lớp trẻ thì cũng là đúng thôi, nhưng mà phê để làm gì? Chúng ta cần phải có tác phẩm tốt đưa ra thì mới có sức thuyết phục.
Hỏi: Như vậy là nếu hiện tại giới trẻ đang ưa thích những loại nhạc phẩm, ca khúc rẻ tiền, thì chắc chắn có một phần lỗi không nhỏ ở những nhạc sĩ?
Trả lời: Nhiều, nhiều! Nói cho cùng để các em thích như thế là lỗi của chúng ta. Đánh giá cho đúng, nhu cầu của thời hòa bình khác với thời chiến tranh. Chiến tranh là phải gò bó lại, tập trung vào mũi nhọn. Anh phải sống một cách trung thực mới đạt thành quả. Thế nhưng hiện nay, có loại người chẳng trung thực mà vẫn giàu có. Xã hội hiện nay có nhiều sự phân cấp các tầng lớp khác nhau, bản thân các văn nghệ sĩ cũng thế...
Hỏi: Ông có cảm thấy đôi khi chúng ta hơi bị ngây thơ không, tức là chúng ta khi tiến hành một cơ chế chính sách nào đấy, chúng ta chỉ nghĩ là nó chỉ có tích cực không, mà cuộc đời lại không bao giờ như thế cả, bao giờ cái tích cực cũng kèm theo cái tiêu cực, cái hệ lụy của nó?
Trả lời: Phải nói thế này, Đảng nói cả rồi, những thực tiễn cuộc sống lại dạy cho anh những bài học thiết thực. Đối với âm nhạc ta phải nắm lại bằng các tác phẩm âm nhạc hay. Tác phẩm văn nghệ nào trước tiên cũng phải đúng, nhưng đúng mà không nhã thì không được, vì văn học nghệ thuật cần phải đẹp.
Hỏi: Tiêu chí thì rõ ràng rồi, nhưng tại sao lại không thực hiện được?
Trả lời: là bởi nghệ sĩ. Giới nghệ sĩ ta phân ra nhiều tầng lớp, già như chúng tôi thì vốn sống thực tiễn vẫn cập nhật, nhưng phải thừa nhận là đôi khi anh không được như trước. Trước, anh sống với người ta "đồng sàng đồng mộng" hằng ngày. Bây giờ anh ở đâu? Theo tôi, để làm tốt công việc của mình, trước hết ta cần có tầm nhìn chính trị, phải nhìn thấy cơ chế thị trường có hai mặt. Đừng ngơ ngơ trước đời sống thực.
Hỏi: Nhưng xem ra các nghệ sĩ bây giờ "bụi đời" hơn trước rất nhiều, ngày xưa nghệ sĩ chỉ thuần túy là viên chức thôi...
Trả lời: Cũng "bụi đời", nhưng "bụi đời" không phải lúc nào cũng đúng cách. Ngày xưa tại sao tôi viết được? Không cần ai kêu gọi, mình đã sống rồi, đã đi rồi. Tôi gần bộ đội nhất, mình mắc võng cùng họ ở Trường Sơn. Ngày xưa làm như thế không thành vấn đề gì hết, nhưng mà bây giờ chuyện này lại thành vấn đề. "Sống bụi" bây giờ chỉ là loanh quanh khu phố anh ở thôi, với những cảm xúc dù thực nhưng chỉ là "cho em một ngày một ngày thôi". Chúng ta muốn văn nghệ sĩ có tầm nhìn sâu rộng hơn, may ra...
Hỏi: Ông từng làm Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin, rồi làm Phó ban Tư tưởng Văn hóa T.Ư và nay là Phó chủ tịch thường trực liên hiệp các hội Văn học - Nghệ thuật. Ông có cảm giác rằng ở vị trí hiện nay, ông nhìn rõ hơn nhiều vấn đề hay không?
Trả lời: Đúng rồi! Về đây mới thấy là trước mình quan liêu, vì mình đâu có tiếp xúc với xã hội thực nhiều đâu. Nhân đây tôi cũng nói luôn, hiện nay đang nổi lên một vấn đề lớn, đó là vấn đề "thẩm định". Lần này Ban Tư tưởng Văn hóa dự định kiên quyết tăng cường phê bình lý luận văn học nghệ thuật. Kém quá, không theo kịp đời sống. Nếu có thì lại "đánh" nhau, chứ không làm được gì lớn, không giải mã được những vấn đề lớn. Có những vấn đề đòi hỏi phải cùng nhau bàn bạc mà tìm, chứ không phải ai một mình cũng giải mã được đâu. Thí dụ như bây giờ là một xu hướng muốn công kích Ea Sola, coi đó không phải là múa. Nhưng phê phán thì cũng phải có lý luận chứ. Hơn nữa, Đảng ta đã nói rồi: "Phải tôn trọng rất nhiều phương pháp thể hiện khác nhau".
Hỏi: Ở các nước khác dòng cổ điển luôn song hành với dòng hiện đại, chuyện bình thường thôi mà!
Trả lời: Có gì đâu! Nếu có sai thì sai vài điểm, thí dụ không nên tự xưng mình là đại diện cho nền múa đương đại Việt Nam... Thế thôi, chứ còn có cái gì khác đâu! Hỏi: Trong nghệ thuật, có thể ta không thích một tác phẩm nào đó nhưng không được ngăn cấm? Trả lời: Hội Âm nhạc ủng hộ, Hội Sân khấu ủng hộ, chỉ có Hội Múa là phản đối.
Hỏi: Theo cá nhân ông, Hội Múa phản đối vì lý do gì?
Trả lời: Cũng có thể là sự vị kỷ, cũng có thể là do nghĩ rằng ta ưu ái Ea Sola quá, vồ vập quá, trong khi những người hoạt động trong lĩnh vực này lâu năm lại không được sự đối xử đến như thế... Rất nhiều, nhưng có thể chưa phải là yếu tố nghệ thuật. Yếu tố khác thì được, ta phân tích rồi ta bổ khuyết, nhưng về yếu tố nghệ thuật thì không được làm thế. Từng có thời kỳ người ta kiện nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý về chuyện này chuyện nọ, nhưng phải thấy rằng, tất cả các tác phẩm của Nguyễn Văn Tý là hay chứ! Tác phẩm hay thì làm sao được? Có chuyện về tư cách cá nhân thì xử lý tư cách cá nhân, còn việc tác phẩm là tác phẩm. Thực ra, chuyện này cũng là bình thường thôi, trong văn chương cũng thế, ông này chấm thì ông kia kêu. Chúng ta cần nhớ rằng, tác phẩm nghệ thuật là một thứ hàng hóa, hàng hóa cũng có quy luật vận động, sản xuất, tiêu thụ. Tiêu thụ tốt, đầu ra tốt thì kích thích tái sản xuất mở rộng. Thế bây giờ hàng hóa làm ra không bán được, hàng hóa làm ra bán được thì rất linh tinh. Lấy thí dụ như phim truyền hình, cấp trên quy định phải có 50% phim phát sóng là của Việt Nam. Lấy đâu mà nhiều thế? Thành ra chất lượng phim truyền hình mới như hiện nay. Tôi nhớ, ngày trước có đồng chí lãnh đạo nói với tôi: "Chỉ phát triển khi nào mình quản lý được, còn quản lý chưa được thì thôi".
Hỏi: Nếu vậy giờ nhìn lại, thì có việc gì khiến ông nghĩ rằng, giá được cho làm lại...
Trả lời: Nếu được cho làm lại? Thế thì nhiều!...
(Theo Báo An ninh thế giới)
Tập ca khúc "Lời ru trên nươn"', tập ca khúc "Một mùa xuân nho nhỏ", tuyển tập ca khúc "105 ca khúc Trần Hoàn". Ông đã có nhiều Album Audio và Video xuất bản.
Lời ru trên nương ( phỏng thơ Nguyễn Khoa Ðiềm)...

Sau những thành công của một số ca khúc viết cho phim như: "Mong ước kỷ niệm xưa" trong phim "Xin hãy tin em" của đạo diễn Thanh Hải, "Lời ru cho con" trong phim "Của để dành", "Nếu phải xa nhau" phim "Sóng ngầm", "Lời chưa nói" trong phim "Phía trước là bầu trời", cái tên Xuân Phương đã dần quen và in sâu trong tiềm thức của người yêu nhạc. Anh bảo những bài hát sáng tác cho phim thành công ngoài sự tưởng tượng của anh: "Mình không bao giờ nghĩ là các ca sĩ sẽ hát chúng trên sân khấu cả, mà chỉ đơn thuần phục vụ cho bộ phim thôi. Sự thành công ấy cũng là nhờ bạn bè tin tưởng vào mình, nhờ mình sáng tác cho phim của họ...". Đó là cơ hội với anh, còn các ca khúc được yêu thích là nhờ vào ca từ và âm nhạc của anh đấy chứ. Con đường nghệ thuật âm nhạc mà bố và chị gái anh đã theo đuổi để anh tiếp tục truyền thống gia đình đã sớm mang lại cho anh ít nhiều thành công. Kết thúc khóa học sáng tác 1993-1997 ở Nhạc viện Hà Nội và làm giáo viên giảng dạy piano ở trường Cao đẳng Nghệ thuật quân đội, Xuân Phương sáng tác khá ít, anh bảo mỗi năm anh chỉ sáng tác một hai bài thôi: "Khó lắm, cảm xúc sáng tác đôi khi không phụ thuộc vào bản thân mình". Có lẽ anh hơi khó tính trong sáng tác và rất cẩn thận trong việc chọn ca sĩ cũng như công việc hòa âm, phối khí cho đứa con tinh thần của mình; anh muốn chúng đến tai người nghe phải thật hoàn hảo như anh mong muốn. Ngoài những ca khúc viết cho phim, anh cũng đã sáng tác được 5, 6 ca khúc nữa. Hai trong số đó đã được phổ biến là Nhớ mãi trong tim và Hẹn em Hà Nội. Anh muốn tập hợp các ca khúc này, và cả những ca khúc sáng tác cho phim thành công thành một CD riêng. Viết nhạc cho quảng cáo cũng là một lĩnh vực anh thường được mời cộng tác bên cạnh việc làm nhạc cho những bộ phim không cần bài hát.

Nhạc sĩ Phú Quang sinh ngày 13/10/1949. Quê quán tại Hải Phòng. Nhạc phẩm đầu tay của anh là Ballát "Niềm tin" viết cho viôlôngxen và pianô vào năm 1967. Các tác phẩm khác: Em ơi Hà Nội phố, Ðâu phải bởi mùa thu, Khúc mùa thu, Im lặng đêm Hà Nội, Trong ánh chớp số phận, Mơ về nơi xa lắm.... Nhạc của Phú Quang chủ yếu là tình ca, anh bảo anh viết xuất phát từ những rung động, những xúc cảm của mình. Dường như anh không có khả năng rung cảm về những đề tài khác và anh đã sáng tác trên nền những tình yêu có thật và cả những ảo tưởng về tình yêu của mình. Nhạc Phú Quang có một dấu ấn, một phong cách riêng, đầy chất tự sự, da diết, có khi nó lại vút cao, đầy kịch tính. Nhạc sĩ Phú Quang được nhiều người biết với nhạc phẩm Em ơi Hà Nội phố, một ca khúc anh phổ thơ Phan Vũ, một ca khúc thật đẹp, nó đánh thức và nuôi dưỡng hoài niệm về Hà Nội trong lòng bao người Hà Nội và cả những người đã một lần đến Hà Nội: "Em ơi, Hà Nội phố, ta còn em mùa hoàng lan, ta còn em mùa hoa sữa...". Với anh âm nhạc đơn giản đó chỉ là nhu cầu tự bộc lộ. Hạnh phúc của người nghệ sĩ là sáng tạo và tìm thấy sự đồng cảm của công chúng với những sáng tạo của mình. - Tại sao nhạc của anh chủ yếu là tình ca? Vì anh yêu nhiều quá hay vì anh không được yêu? - Nhạc sĩ Phú Quang: Tôi viết xuất phát từ những rung động, những xúc cảm của mình. Không hiểu sao những rung cảm ấy lại thường là những rung cảm về tình yêu. Dường như tôi không có khả năng rung cảm về những đề tài khác. Bảo tôi yêu nhiều quá cũng đúng, mà bảo là tôi không được yêu cũng chẳng sai. Với tôi, yêu thật hay mơ được yêu thì cũng là yêu. Tôi đã sáng tác trên nền những tình yêu có thật và cả những ảo tưởng về tình yêu của mình. - Có một số ý kiến cho rằng, trong âm nhạc của anh, giai điệu tiết tấu thường đi theo một mô-típ: trầm trầm, tự sự, da diết than thở, rồi lại vút cao, thét gào đầy kịch tính ... và cứ thế trở đi trở lại, nghe là biết ngay nhạc Phú Quang ... - Cho dù khỏa thân hay trong một bộ đồ lớn thì mỗi người vẫn là chính mình. Cũng vậy, trong sáng tác mỗi người phải luôn luôn là chính mình. Cho dù biến thể, biến tấu thế nào, tôi cũng vẫn là tôi chứ không bao giờ trở thành người khác. Tôi rất mừng khi nhiều người bảo rằng cứ nghe là biết ngay nhạc Phú Quang. Như vậy nghĩa là tôi đã tạo được một dấu ấn, một phong cách riêng cho nhạc của mình. - Em ơi Hà Nội phố là một ca khúc của anh, phổ thơ Phan Vũ - một ca khúc về Hà Nội đương đại. Dường như đó cũng là khởi đầu cho một loạt ca khúc của nhiều tác giả về Hà Nội đương đại? Anh nghĩ gì khi phổ thơ Phan Vũ? Nhìn nhận của anh về số lượng rất nhiều những ca khúc về Hà Nội xuất hiện trong thời gian gần đây? - Trong nỗi nhớ quay quắt và thường trực về Hà Nội, và một ngày ngẫu nhiên cách đây hơn 10 năm, tôi đã gặp Phan Vũ trên đường phố Sài Gòn. Anh đưa tôi bài thơ thật dài Em ơi, Hà Nội phố. Tôi đọc lần đầu tiên mà như đã đọc từ rất lâu, như chính tôi vẫn thường nghĩ thế: "Em ơi, Hà Nội phố, ta còn em mùa hoàng lan, ta còn em mùa hoa sữa..." Đọc xong bài thơ, linh cảm mách bảo cho tôi đó sẽ là bài ca mà tôi yêu thích. Tôi tin vào linh cảm ấy... Hoài niệm về những gì thẳm sâu làm nên cái đẹp, cái hồn của Hà Nội đã tạo thành cuộc hôn phối giữa thơ anh Phan Vũ và nhạc của tôi... để rồi chính ca khúc ấy lại đánh thức và nuôi dưỡng những hoài niệm về Hà Nội trong lòng bao người Hà Nội... Ca khúc về Hà Nội xuất hiện ào ạt như phong trào trong thời gian gần đây, tôi nghĩ, đã là phong trào thì sau khi rộ lên tự nó sẽ hạ xuống theo quy luật. Tôi rất yêu Hà Nội, nhưng nếu phải nghe một băng nhạc mà trong đó có đến cả chục bài về Hà Nội thì cũng... sốt ruột. - Theo anh, thế nào là một nhạc sĩ thành công ? Có phải đó là một nhạc sĩ kiếm được nhiều tiền bằng âm nhạc của mình? - Thật khó có thể đưa ra những tiêu chuẩn cho cái gọi là sự thành công của người nghệ sĩ nói chung và người nhạc sĩ nói riêng. Có lẽ phải đến lúc chết, người nghệ sĩ mới biết mình có thành công hay không. Nhưng ngay cả cái biết về sự thành công hay không vào lúc ấy có khi cũng là giả. Bởi vì sự tung hô ngày hôm nay có thể ngày mai không còn nữa. Kiếm được nhiều tiền, nói cho cùng cũng chẳng có ý nghĩa gì! Tất nhiên có tiền sẽ sướng, nhưng nếu ai cho đó là thành công thì chỉ là sự thành công về vật chất. Vả chăng, người nghệ sĩ khi sáng tác có lẽ chẳng ai nghĩ đến thành công. Đơn giản đó chỉ là nhu cầu tự bộc lộ. Hạnh phúc của người nghệ sĩ là sáng tạo và tìm thấy sự đồng cảm của công chúng với những sáng tạo của mình. Picasso là tỷ phú. Van Gogh lại nghèo khổ cùng cực. Cả hai đều thành công.

Nhạc của anh tạo cho người nghe cảm giác được tan ra trong từng lời ca, được bay lên, được vỗ về và thấu hiểu... Tác giả của "Em về tinh khôi", "Ngồi hát ca bồng bềnh", "Tình yêu trong lành"... bây giờ lại đảm nhiệm thêm vai trò bầu ca nhạc. Anh đã trò chuyện về những thăng trầm trong sự nghiệp. * Anh trở thành ông bầu ca sĩ từ khi nào? - Công việc của tôi là góp phần tạo dựng hình ảnh cho các ca sĩ, gọi chính xác là cố vấn nghệ thuật. Tôi đã làm công việc này từ năm 1997. Hiện tôi là bầu ca nhạc cho Ngô Thanh Vân, đã có hợp đồng chính thức và chiến lược đầu tư bài bản. * Anh đánh giá thế nào về thị trường nhạc trẻ hiện nay? - Thị trường VN vẫn là một thị trường nhỏ và khá bảo thủ. Cái khó nhất là làm thế nào để nhạc của mình vừa lạ vừa hấp dẫn công chúng. Nhìn chung, quan điểm của người nghe là muốn thưởng thức những làn điệu ngọt ngào, dễ thương, đơn giản... Đáp ứng được những quy định ngặt nghèo ấy cũng không phải là điều dễ dàng gì đối với người biên tập. * Anh nghĩ gì về sự nổi tiếng rất nhanh của các ca sĩ trẻ hiện nay? - Sự nổi tiếng là phần thưởng, là sự ban tặng cho những nỗ lực cá nhân, thế nhưng nó cũng là con dao hai lưỡi. Tôi nghĩ mỗi ca sĩ, dù ở mức độ nào, nên tự xem mình là người vô danh. Nếu nghĩ mình nổi tiếng thì sẽ không bao giờ có thể tự làm mới mình. * Anh có thể kể một chút về mình và về bài hát đầu tiên? - Bài hát đầu tiên của tôi là Em về tinh khôi viết năm 1991. Khi ấy tôi đang là giảng viên guitar Cao đẳng Sư phạm TP HCM và sinh hoạt ở Hội Âm nhạc thành phố. Năm 1996, khi nhạc Việt bắt đầu lên ngôi, tôi được Phương Nam phim mời về làm biên tập. Năm 1997, Em về tinh khôi chính thức được trình làng cùng giọng ca Trần Thu Hà, còn tôi bắt đầu giữ vai trò biên tập và hòa âm.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn - Huyền thoại cát bụi

Con người ai cũng có tên cùng với danh xưng - riêng Trịnh Công Sơn không cần đến danh xưng. Nói đến Trịnh Công Sơn hầu như ai cũng biết anh là nhạc sĩ - không chỉ biết anh là nhạc sĩ mà người yêu nhạc nào cũng thuộc của anh ít nhất một đôi câu, bởi lẽ lời và nhạc của Trịnh Công Sơn nói nhiều lẽ của đời người: nỗi buồn, niềm vui và khát vọng. Ông sinh ngày 28/02/1939 tại Hương Vinh, Huế. Tốt nghiệp tú tài ban triết, Trịnh Công Sơn tự học nhạc, bắt đầu sáng tác năm 1958 với tác phẩm đầu tay Ướt Mi (NXB An Phú in năm 1959). Cho đến nay, nhạc sĩ đã sáng tác hơn 600 tác phẩm, có thể được phân loại dưới 3 đề mục lớn: Tình Yêu - Quê Hương - Thân Phận. Nửa cuối thập niên 1950 - 1960, giữa lúc dòng nhạc Ðoàn Chuẩn đang dần ngưng với Lá đổ muôn chiều, Chiếc lá cuối cùng và Gửi người em gái miền Nam thì dòng nhạc Cung Tiến bắt đầu giao thoa vào với Hương xưa, Thu vàng, Hoài cảm. Tiếp tục giao thoa với dòng âm nhạc Cung Tiến, năm 1958, 19 tuổi đời, Trịnh Công Sơn đã bắt đầu dòng nhạc của mình bằng Ướt mi - một ca khúc mang đậm nỗi buồn Huế. Giai đoạn đầu, ca khúc Trịnh Công Sơn căn bản là tình khúc. Bằng nỗi cô đơn trong trẻo, đầy linh cảm mất mát của tuổi đôi mươi, những tình khúc Trịnh Công Sơn khi ấy là lời thốt lên của lớp thanh niên miền Nam sống triền miên trong âu lo, trong phấp phỏng thời cuộc. Ðó là những Thương một người, Chiều một mình qua phố, Hạ trắng... và tiếng nức nở trào lên một đổ vỡ ở Cuối cùng cho một tình yêu. Trong giai đoạn này, ca khúc Cho một người nằm xuống, đã báo hiệu cho một cái nhìn về chiến tranh. Thân phận những người lính ngã xuống chỉ là một mất mát đời đời. Báo hiệu này đã dẫn tới những ca khúc phản chiến ở giai đoạn tiếp theo của dòng nhạc Trịnh Công Sơn. Nhìn chiến tranh bằng cặp mắt trung thực ở tầm nhân loại, Trịnh Công Sơn đã kêu lên bức bối giữa cuộc đời "nồi da nấu thịt". Có lẽ vì cách nhìn như thế nên sau 30/04/1975, Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ miền Nam duy nhất lại có thêm nửa khối thính giả ở miền Bắc. Anh đã tạo ra thính giả bằng chất nhạc riêng của mình. Cũng cần nói thêm rằng sự nghiệp âm nhạc của Trịnh Công Sơn trong thời kỳ này được chắp cánh nhờ giọng hát Khánh Ly. Cuộc trùng phùng này đã để lại một dấu ấn không phai mờ trong lịch sử âm nhạc Việt Nam. Trịnh Công Sơn bước vào địa hạt làm âm nhạc cho điện ảnh cũng từ sau giải phóng miền Nam. Anh đã có mặt ở gần hai chục phim truyện cũng như tài liệu. Từ trong những cuốn phim, ca khúc Trịnh Công Sơn lại đĩnh đạc bước vào đời, sống một cuộc sống riêng như những ca khúc khác. Nếu ở giai đoạn trước là sự song hành của Trịnh Công Sơn với Khánh Ly, thì ở địa hạt âm nhạc cho điện ảnh lại là song hành của Trịnh Công Sơn với Phạm Trọng Cầu. Hai người bạn, hai nhạc sĩ nhiều đồng cảm với nhau luôn cùng có mặt trong từng bộ phim. Cuối tháng 3 năm 1990, nhạc sĩ có một cõi âm thanh của hơn ba mươi năm sáng tạo, của gần 500 ca khúc thoắt một cái đã trở thành diễn viên của phim truyền hình do hãng phát thanh truyền hình BBC thực hiện. Nhạc sĩ đã qua đời lúc 12g45 ngày 1 tháng 4 năm 2001 tại TP Hồ Chí Minh. Trịnh Công Sơn để lại cho đời một gia tài ca khúc thật đồ sộ. Nhưng lớn hơn, đẹp hơn và cao quý hơn là tâm hồn anh. Sinh thời, Trịnh Công Sơn quan niệm cuộc sống trần gian này là cõi tạm. Biết là cõi tạm nhưng Trịnh Công Sơn muốn tạm lâu dài bởi vì: "Tôi là ai mà trần gian thế. Tôi là ai mà yêu quá cuộc đời này". Trịnh Công Sơn yêu đời với một tâm hồn rất trẻ thơ. Bao nhiêu người sẽ còn nuôi anh trong hồn. Bao nhiều người sẽ còn hát với anh và khóc vì anh. Tình người không bao giờ vơi trên cõi đời nhưng nó có luật đo lường của nó. Anh cho bao nhiêu thì sẽ được tặng lại bấy nhiêu, ấy là lẽ công bằng vậy!

Ông sinh ngày 10 tháng 2 năm 1943, quê ở Vân Đình, Hà Sơn Bình. Dương Thụ tốt nghiệp khoa Văn trường Ðại học sư phạm Hà Nội năm 1965, làm giáo viên cấp III, rồi làm giảng viên khoa lý luận Ðại học Mỹ thuật TPHCM. Từ năm 1982, ông chuyển sang hoạt động âm nhạc, vừa sáng tác vừa chỉ đạo nghệ thuật cho nhiều Ðoàn Văn công chuyên nghiệp, rồi làm biên tập cho Nhà xuất bản Âm nhạc và Ðĩa hát Việt Nam, Tạp chí Âm nhạc của Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Từ năm 19 tuổi, Dương Thụ đã có ca khúc được phát trên Ðài Tiếng nói Việt Nam (Bài Nhớ làng xưa). Ông đã viết nhiều ca khúc và tên tuổi của ông trở nên quen thuộc đối với giới hâm mộ âm nhạc, đặc biệt là giới trẻ. Ca khúc của Dương Thụ khúc chiết, trữ tình, có phong cách riêng, mang hơi thở của dòng âm nhạc mới, phảng phất âm hưởng dân tộc. Dương Thụ không có may mắn xuất hiện là một nhạc sĩ trẻ viết tình khúc như Trần Viết Bính, Đỗ Trọng Quang... và vì thế cũng không có cả cái không may mắn bị dừng lại như những nhạc sĩ ấy. Anh bắt đầu lặng lẽ khi dòng chảy kia dừng lại cái ham mê sáng tạo âm nhạc, chứ không phải mưu danh thành một nhạc sĩ nổi tiếng, đã thúc đẩy chàng "cử nhân văn chương" đi vào sáng tác tình khúc. Anh dồn cả ước mơ vươn tới những hình thức lớn của âm nhạc và trong những tìm tòi ở ca khúc. Từ ở anh như một nốt nhạc và sự hòa điệu của nốt và từ trong tình khúc Dương Thụ đã mang đến cho người nghe một rung động vừa mờ, vừa tỏ. Anh chặt chẽ ở phát triển, gọn ghẽ trong cấu trúc. Nhịp đảo ở anh không phải là đảo phách của phương Tây mà là nhịp nội, nhịp ngoại của âm nhạc dân gian. Để hết mình cho sáng tạo, Dương Thụ dám chịu sống nghèo, rất nghèo. Có lẽ vì thế, liên tiếp nhiều năm tình khúc Dương Thụ vẫn chỉ được hát nhỏ trong bạn bè. Năm 1978, Dương Thụ tìm vào Sài Gòn, giảng dạy văn hóa ở cao đẳng mỹ thuật. Dương Thụ vẫn tiếp tục tìm tòi. Dương Thụ không lên gân triết lý trong ca từ. Anh tự sự giản dị những khoảnh khắc, những giây lát xảy ra trớ trêu của tình yêu. Và từ những sự việc đó, âm thanh bay lên. Ca từ Dương Thụ hồn nhiên như chính đời sống, tình yêu. Tình khúc Dương Thụ... và cây đời mãi mãi xanh tươi.

Nhạc sĩ Phó Ðức Phương quê quán tại Hà Nội. Anh sinh năm 1944. Năm 1967, Phó Ðức Phương sáng tác bài "Những cô gái quan họ", bài hát thấm đẫm một âm hưởng trữ tình của đồng bằng Bắc Bộ, khi đó tác giả còn đang ở thời kỳ mới vào trường nhạc. Cho đến bây giờ, có người vẫn chỉ nhớ Phó Ðức Phương qua bài hát trên. Với "Những cô gái quan họ" Phó Ðức Phương đã thực sự trở thành một nhạc sĩ từ khi đó. Phó Ðức Phương là cháu của nhà cách mạng Phó Ðức Chính, năm 18 tuổi thi đỗ vào khoa toán trường đại học sư phạm. Sau ba năm học, năm 1965, giữa lúc gần tốt nghiệp đại học sư phạm, Phương xin thôi học với lý do hoàn cảnh gia đình khó khăn và trở thành nông trường viên chăn lợn thuộc nông trường Cửu Long (Hòa Bình). Ðến giữa năm 1966, anh trở về thi vào trường Âm nhạc Việt Nam. Lúc đó, trường sơ tán lên Hà Bắc. Bài "Những cô gái quan họ" ra đời trong thời kỳ anh chờ đợi bước vào những giờ học đầu tiên. Các tác phẩm khác của anh là: Hồ trên núi, Huyền thoại hồ Núi Cốc, Một thoáng Hồ Tây, Trên đỉnh Phù Vân, Về quê, Thành phố biển xanh và cát trắng ...

Nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu là nhạc sĩ chuyên về Contrepointiste và Fuguiste. Ông sinh ngày 25 tháng 12 năm 1935 tại Nam Vang (Campodia), mất năm 1998 tại TP.HCM. Nguyên quán của ông ở Hà Nội. Ông là con trắc địa sư Phạm Văn Lạng và bà Ðào Thị Ngọc Thư vốn người ở Hà Nội sau đổi sang làm việc ở Campuchia. Năm 1939 cha mẹ ông bị trục xuất ra khỏi đất Chùa Tháp, vì lý do chính trị, gia đình ông phải về sống ở Sài Gòn. Tại đây anh em ông được ăn học đầy đủ. Sau ngày Nam Bộ kháng chiến, thân phụ ông ra vùng tự do tham gia kháng chiến, bản thân ông gia nhập bộ đội chiến đấu ở chiến trường Ðồng Tháp Mười. Ðến năm 1953, ông bị thương nặng phải cưa cả chân, mẹ ông đã tìm cách đưa ông vào Sài Gòn cứu chữa. Sau hiệp định Genève ông sống ở Sài Gòn, theo học tại viện Âm nhạc Sài Gòn. Sau đó ông du học về âm nhạc tại Pháp hơn 7 năm. Những năm đầu 70 ông tốt nghiệp Conservatoire Supérieur de Musique de Paris. Ông là tác giả nhiều ca khúc, lãng mạn hiện đại và các loại hòa tấu có giá trị nghệ thuật cao. Các tác phẩm: Em ra đi mùa thu, Trường làng tôi, Cho con, Một trái tim một quê hương, Tà áo trắng, Một mai tôi qua đời, ...
Trọng Đài - Từ một đêm trở gió

Dù nhạc sĩ Nguyễn Trọng Ðài đã quá nổi tiếng với bài hát Chị tôi (thơ Ðoàn Thị Tảo) trong phim truyền hình Người Hà Nội thì bài hát Hà Nội- đêm trở gió được anh viết cho vở kịch cùng tên của Chu Lai vẫn không vì thế mà sút giảm ngôi vị trong top ten bài hát hay nhất về Hà Nội. Ði đến bất kỳ quán Karaoke nào ở Hà Nội và hầu như ở khắp nước, người ta đều nghe da diết: "Hà Nội ơi! Xanh xanh màu áo học trò. Những con đường thân quen còn đó..." Là con nhà nòi âm nhạc ở Hà Nội, Ðài bước vào âm nhạc có lẻ cùng thời với Ðặng Thái Sơn vì cùng sinh 1958. Dù rằng cả hai đều được đào tạo tại Nhạc viện Tchaikovski (Matxcova) thì nhịp số phận vẫn làm cho Sơn nổi tiếng trước Ðài đúng một thập niên. Năm 1980, Sơn đã đoạt giải Chopin trong cuộc thi Piano quốc tế mang tên nhạc sĩ thiên tài này. Còn Ðài, mãi tới năm 1990 mới đăng quang trong cuộc thi sáng tác nhạc thính phòng do Hội nhạc sĩ VN tổ chức. Hôm ấy, bản ngũ tấu đàn dây của Ðài do các giảng viên Trường Âm nhạc- văn hoá nghệ thuật Hà Nội biểu diễn đã gây được nhiều thiện cảm về một ngôn ngữ khí nhạc khá riêng. Từ sau giải thưởng, cứ mỗi năm Ðài lại trình làng một chương trình. Người luôn luôn bên cạnh anh làm một phần trong chương trình là nhạc sĩ Xuân Tứ. Phần là vì cả hai đều công tác dưới một mái trường nghệ thuật của Hà Nội. Phần nữa là do cá tính sáng tạo của họ, những điều tri kỷ với nhau. Từ năm 1994, vừa ở trường vừa kiêm nhiệm phó đoàn phụ trách nghệ thuật Ðoàn ca múa Thăng Long, Ðài đã cùng đoàn tạo ra chương trình Hà Nội 40 mùa xuân khá hoành tráng và cùng nhạc sĩ Vĩnh Cát- Giám đốc Sở văn hoá thông tin Hà Nội- tạo ra đêm giao hưởng Hà Nội rất là...Tràng An. Ngay sau đó, nhân kỷ niệm 20 năm giải phóng miền Nam (1975-1995), Ðài lại "vào trận" khá sung mãn với bản giao hưởng (poème sumphonie) Ký ức '75. Bằng một bút pháp trôi chảy trên chất liệu dân ca đồng bằng Bắc Bộ, có lẻ Ðài muốn nhắc tới hàng triệu người con miền Bắc từ các thôn làng, thành phố, công xưởng, trường học đã hoà vào nhau tạo thành một Dòng sông lính chảy liên tục, cuồn cuộn về chiến trường miền Nam suốt một thập niên ác liệt nhất của cuộc chiến tranh chống Mỹ. Và giữa những âm thanh triền miên đó, chợt có những ngắt quãng, những tương phản, những vết nhói trên thân mình Tổ Quốc, nơi biết bao người lính đã ngã xuống. Cũng ngay thời gian ấy, trong tiết mưa phùn gió bấc của Hà Nội, trời đất thanh xuân như người yêu nhỏ xinh đang giận hờn giá lạnh, chợt nghe ấm áp âm nhạc Nguyễn Trọng Ðài trong vở kịch múa Em- người con gái Việt Nam (kịch bản: Nguyễn Thị Hồng Ngát, đạo diễn Cheryl Stock của Úc). Dù làm nhạc cho nhiều vở diễn, chỉ tới khi làm nhạc cho vở kịch Hà Nội- đêm trở gió của Chu Lai, Ðài mới đóng được một cái đinh chắc chắn vào trí nhớ của những người mến mộ sân khấu. Mặc dù ngay cả Chu Lai cũng phải công nhận là lời ca còn chưa hay, còn sáo thì Hà Nội- đêm trở gió qua sự lôi cuốn của âm nhạc, vẫn cho ta thêm một sự tự hào nữa về kinh kỳ ngàn năm văn hiến của người Việt. Ðài vẫn cứ thế, lang thang trên các nẻo đường Thăng Long. Ngày ngồi với bạn bè và chút men. Ðêm ngồi một mình với âm nhạc. Bỗng nghe đâu đây vọng ra một chủ đề âm nhạc ở tuổi 40...
(Theo Báo Văn hoá nghệ thuật - Nguyễn Thuỵ Kha)

Anh luôn bị ám ảnh với những hồi ức yêu thương, ngọt ngào của mối tình đầu. Biết rằng trái tim cũng sẽ phải tuân theo bổn phận của cuộc sống thực tại nhưng Ngọc Châu luôn muốn giữ mối tình ấy tinh khiết trong âm nhạc. + Trong những bài hát của anh như "Thì thầm mùa xuân", "Ngây thơ", bài nào cũng chan chứa một tình yêu vui tươi. Hẳn nguồn cảm hứng âm nhạc phải lấy từ nhiều nguồn tình yêu? - Tình yêu chỉ có duy nhất. Nếu tôi có nhiều mối tình thì hẳn tôi không thể sáng tác âm nhạc, vì đơn giản đó không phải là tình yêu đích thực. Trong ca khúc của tôi, tình yêu như mang đầy niềm vui, sự sống... nhưng ngoài đời, tôi không được may mắn sống thực với một tình yêu như thế. + Anh đang khao khát về mối tình nào vậy? - Tôi không khao khát mà gìn giữ. Đó là mối tình đầu của tôi. Tất cả các bài ca của tôi đều hút mật từ những hồi ức về mối tình này. Không chỉ thế, cuộc sống của tôi cũng được quy định ít nhiều từ ấn tượng ban đầu. Tình cảm này quyết định mọi cách ứng xử tình cảm khác của tôi. Chúng tôi cùng học cấp III, cùng có những người bạn, những kỷ niệm chung... nhưng cuối cùng, tôi không giữ được tình yêu của mình. + Anh đang hối hận? - Không phải vậy. Chúng ta chỉ có lỗi với nhau khi đang yêu. Khi tình yêu trôi qua thì không còn gì nữa. Nhưng tôi thấy mình lớn lên, chín chắn rất nhiều. Tôi biết ơn tình yêu đó. Nó không có gì khác ngoài vẻ rạng rỡ, bí ẩn, tươi sáng, ngọt ngào... thậm chí không có cả nỗi đau nữa. + Anh có luôn mơ tới người phụ nữ ấy? - Tôi rất ít mơ thấy cô ấy. Có lẽ giấc mơ của tôi không xứng để cô ấy bước vào. Nhưng mỗi khi cảm xúc dâng trào, hình ảnh cô ấy lập tức xuất hiện. Tôi tin rằng, kỷ niệm của mối tình đầu sẽ theo tôi suốt cả cuộc đời. + Bài hát nào anh viết tặng riêng cho mối tình đầu của mình? - Đó là bài Thì thầm mùa xuân. Tôi sáng tác như trong cơn mê sảng. Cô ấy có nghe và cũng nhận ra một vài cung bậc tình cảm mà tôi đã trao dâng. Bài hát này tôi viết vào thời gian cô ấy đi xa... và xa cả tôi. Sau khi học phổ thông, cô ấy ra nước ngoài học tiếp. Chúng tôi vẫn thỉnh thoảng thư từ cho nhau. Tình yêu của tôi không đổi thay nhưng tôi linh cảm rằng, nếu không có tôi thì cô ấy hạnh phúc hơn... Chúng tôi chia tay nhau. Sau này, cô ấy lấy chồng và ở lại bên đó. + Anh đã thử kiếm tìm hình bóng cô ấy trong những cô gái khác chưa? - Trái tim tôi sau đó giống như không đập 5, 6 năm. Sau này, tôi cũng có ý nghĩ con trẻ đó là tìm một người tương tự như cô ấy, nhưng không thể. Tôi cũng gặp một hai phụ nữ khác nhưng không thể phá vỡ mình ra cho họ bước vào được. Mọi cử chỉ dịu dàng, ngọt ngào đều như tấm gương đau đớn soi cho tôi thấy hình bóng ngày xưa...
Ngọc Châu - "Thì Thầm Mùa Xuân" là tâm sự mối tình đầu
Vài nét về bản thân:
- Sinh 1967 - Quê Hà Nội - Tốt nghiệp Khoa Sáng tác - Nhạc viện Hà Nội 1983 - 1993 - Các nhạc phẩm: Thì thầm mùa xuân, Cô Tấm ngày nay (viết cho phim Chuyện nhà Mộc)... - Các giải thưởng "Thì thầm mùa xuân" đứng đầu 10 ca khúc được Báo Tiền phong bình chọn 1998. Là nhạc sĩ lọt vào Topten "Làn sóng xanh" của Ðài phát thanh TP.HCM.
Mẹ là ca sĩ Vũ Dậu nổi tiếng, bố là nghệ sĩ độc tấu đàn bầu. Truyền thống gia đình đã chắp cánh cho năng khiếu âm nhạc trong Ngọc Châu.
Anh luôn bị ám ảnh với những hồi ức yêu thương, ngọt ngào của mối tình đầu. Biết rằng trái tim cũng sẽ phải tuân theo bổn phận của cuộc sống thực tại nhưng Ngọc Châu luôn muốn giữ mối tình ấy tinh khiết trong âm nhạc.
+ Trong những bài hát của anh như "Thì thầm mùa xuân", "Ngây thơ", bài nào cũng chan chứa một tình yêu vui tươi. Hẳn nguồn cảm hứng âm nhạc phải lấy từ nhiều nguồn tình yêu?
- Tình yêu chỉ có duy nhất. Nếu tôi có nhiều mối tình thì hẳn tôi không thể sáng tác âm nhạc, vì đơn giản đó không phải là tình yêu đích thực. Trong ca khúc của tôi, tình yêu như mang đầy niềm vui, sự sống... nhưng ngoài đời, tôi không được may mắn sống thực với một tình yêu như thế.
+ Anh đang khao khát về mối tình nào vậy?
- Tôi không khao khát mà gìn giữ. Đó là mối tình đầu của tôi. Tất cả các bài ca của tôi đều hút mật từ những hồi ức về mối tình này. Không chỉ thế, cuộc sống của tôi cũng được quy định ít nhiều từ ấn tượng ban đầu. Tình cảm này quyết định mọi cách ứng xử tình cảm khác của tôi. Chúng tôi cùng học cấp III, cùng có những người bạn, những kỷ niệm chung... nhưng cuối cùng, tôi không giữ được tình yêu của mình.
+ Anh đang hối hận?
- Không phải vậy. Chúng ta chỉ có lỗi với nhau khi đang yêu. Khi tình yêu trôi qua thì không còn gì nữa. Nhưng tôi thấy mình lớn lên, chín chắn rất nhiều. Tôi biết ơn tình yêu đó. Nó không có gì khác ngoài vẻ rạng rỡ, bí ẩn, tươi sáng, ngọt ngào... thậm chí không có cả nỗi đau nữa.
+ Anh có luôn mơ tới người phụ nữ ấy?
- Tôi rất ít mơ thấy cô ấy. Có lẽ giấc mơ của tôi không xứng để cô ấy bước vào. Nhưng mỗi khi cảm xúc dâng trào, hình ảnh cô ấy lập tức xuất hiện. Tôi tin rằng, kỷ niệm của mối tình đầu sẽ theo tôi suốt cả cuộc đời.
+ Bài hát nào anh viết tặng riêng cho mối tình đầu của mình?
- Đó là bài Thì thầm mùa xuân. Tôi sáng tác như trong cơn mê sảng. Cô ấy có nghe và cũng nhận ra một vài cung bậc tình cảm mà tôi đã trao dâng. Bài hát này tôi viết vào thời gian cô ấy đi xa... và xa cả tôi. Sau khi học phổ thông, cô ấy ra nước ngoài học tiếp. Chúng tôi vẫn thỉnh thoảng thư từ cho nhau. Tình yêu của tôi không đổi thay nhưng tôi linh cảm rằng, nếu không có tôi thì cô ấy hạnh phúc hơn... Chúng tôi chia tay nhau. Sau này, cô ấy lấy chồng và ở lại bên đó.
+ Anh đã thử kiếm tìm hình bóng cô ấy trong những cô gái khác chưa?
- Trái tim tôi sau đó giống như không đập 5, 6 năm. Sau này, tôi cũng có ý nghĩ con trẻ đó là tìm một người tương tự như cô ấy, nhưng không thể. Tôi cũng gặp một hai phụ nữ khác nhưng không thể phá vỡ mình ra cho họ bước vào được. Mọi cử chỉ dịu dàng, ngọt ngào đều như tấm gương đau đớn soi cho tôi thấy hình bóng ngày xưa...

Ông còn có bút danh khác là: Trần Nhật Nam, Lê Nguyên. Sinh ngày 25 tháng 2 năm 1942 tại Huế. Tôn Thất Lập hoạt động âm nhạc trong phong trào "Hát cho đồng bào tôi nghe". Khi ấy, những ca khúc như Hát cho dân tôi nghe, Xuống đường, Hát trong tù, hợp xướng Lúa reo trên khắp đồng bằng... của ông đã được cất cao trên các nẻo đường tranh đấu của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam. Sau đó, ông được cử đi tu nghiệp sáng tác tại Nhạc viện Hà Nội và khi tốt nghiệp về làm công tác văn hóa của chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Ông sang Pháp năm 1974. Tại Paris Tôn Thất Lập đã được hội Sinh viên sáng tác hải ngoại xuất bản tuyển tập Những cánh chim từ vùng lửa đỏ. Sau giải phóng, ông về nước, công tác tại sở VH - TT TP HCM. Nhiều ca khúc của ông đã được đông đảo quần chúng mến mộ như Tình ca mùa xuân, Tình ca tuổi trẻ, Trị An âm vang mùa xuân, Mưa thì thầm, Oẳn tù tì, Cô bé dễ thương, Tình yêu mãi mãi... Tôn Thất Lập đã xuất bản các tuyển tập ca khúc như Phố ca, Hát cho dân tôi nghe, Hát lời chiêm bao, Tình ca mùa xuân, Tuyển tập Tôn Thất Lập và các album Nụ hôn, Tình ca mùa xuân... Ngoài ra ông còn sáng tác nhạc múa, nhạc phim. Các tác phẩm tiêu biểu: Tình yêu mãi mãi, Hát cho dân tôi nghe, Trị An âm vang mùa xuân, Xuống đường, Tình ca mùa xuân, Mưa thì thầm.

Có lẽ nhiều người chỉ bắt đầu để ý đến Huy Tuấn từ bài hát Trưa vắng được thể hiện bởi giọng ca Mỹ Linh, sau đó là bài Phút giao thừa lặng lẽ rồi Khúc giao mùa. Khi nghe các ca khúc của anh tôi thường hình dung về một con người rất "già" và rất "cô đơn", có thế thì anh mới có nhiều cảm xúc về giờ khắc giao thừa thiêng liêng đến vậy. Nhưng thực tế lại không phải như tôi nghĩ... * Anh hãy dùng những từ rất ngắn để khái quát về mình? - Nói về mình là điều khó, ở tuổi tôi lại còn khó hơn. Xin lấy ý kiến của nhạc sĩ Dương Thụ, người biết rõ về tôi. Chú bảo tôi là người hiền lành, chân thật, biết dồn nén cảm xúc nên sự thể hiện kín đáo và đơn giản... * Ban nhạc Anh Em đã ra đời như thế nào và điều gì đã gắn bó anh với ban nhạc? - Năm 1993 khi đó tôi đang ở bên Đức cùng nhạc sĩ Anh Quân chuẩn bị cho ra mắt những tác phẩm đầu tiên của mình, chúng tôi quyết định lấy tên Anh Em để đặt cho ban nhạc (lúc đó mới chỉ có hai người). Còn điều gắn bó tôi với ban nhạc chính là âm nhạc, chúng tôi có chung một sự say mê, và một cách nhìn về âm nhạc. * Có vẻ như những sáng tác của anh rất kén người hát. Ngoài Mỹ Linh ít thấy ca sĩ khác thể hiện những tác phẩm của anh, vì sao vậy? - Linh đã hát rất hay những bài hát của tôi. Chúng đến được với người nghe hôm nay cũng là nhờ giọng hát rất, rất ấn tượng của Linh đấy. Nhưng đến ngay cả Linh cũng vẫn thường "chê" là bài của anh khó hát. Ngoài ra đến bây giờ tôi mới có dịp cộng tác với các ca sĩ khác như: Hồng Nhung, Thu Phương, Mỹ Lệ, Khánh Du, Tấn Minh, Anh Tú. * Trong những sáng tác của mình anh có bị ảnh hưởng bởi một "gu" âm nhạc nào đó? - Tôi có ảnh hưởng từ nhiều "gu" âm nhạc khác nhau. Từ R&B đến Funk, từ Soul đến Pop. * Anh có thể nói về cảm hứng sáng tác cho hai bài hát Trưa vắng và Phút giao thừa lặng lẽ? Đây đã phải là những sáng tác mà anh tâm đắc nhất chưa? - Cho tôi khất vế đầu của câu hỏi vì sự thật không được lãng mạn như các bạn nghĩ đâu. Còn lại tôi có nhiều những tác phẩm tâm đắc khác mà chưa chắc đã được các bạn đón nhận. * Trong cuộc sống gia đình anh tự đánh giá mình như thế nào? - Nếu có một cuộc thi "yêu vợ yêu con" thì tôi nghĩ tôi sẽ đoạt giải nhất đấy (hì hì...) * Điều gì ở vợ làm cho anh "yêu" nhất? - Đó chính là đức tính hi sinh cho người khác của cô ấy. * Anh đã bao giờ sáng tác riêng cho vợ con để dành tặng vào những dịp đặc biệt? - Mới chỉ có một lần, sau khi cháu Nuna ra đời tôi có viết một bài Nuna buồn ngủ quá tặng cháu và tất nhiên mẹ của Nuna cũng rất thích và coi bài đấy cũng là của mình. * Những hoạt động âm nhạc hiện tại của anh là gì và những kế hoạch trong tương lai ra sao? - Tôi vừa thu xong CD hòa tấu kèn Saxophones cho Hồng Kiên và cùng Anh Quân, Mỹ Linh hoàn thành album Made in Vietnam. Xin cảm ơn anh.
(Theo Điện ảnh Kịch Trường)
Là cây guitar bass khá nổi tiếng của ban nhạc Da vàng, với cây Bass Washburn 6 dây, Lê Quang nổi tiếng là một trong những người chơi Bass mạnh và nhanh nhất, anh có một niềm xúc cảm mạnh mẽ thật sự khi biểu diễn. Anh chơi các loại đàn Bass Alempic 5 dây, Washburn 6 dây, Fender Jazzbass 4 dây, EMG picks up Amp, Carvin, Sans Amp Bass Driver, ngoài ra anh còn là ca sĩ của ban nhạc. Sau thời gian dài gắn bó với tư cách thủ lĩnh của nhóm nhạc Da Vàng, Lê Quang bước vào lĩnh vực sáng tác và thành công với các nhạc phẩm trữ tình nhưng trẻ trung, sôi động, được giới trẻ yêu thích như "Một ngày bình yên", "Đi về nơi xa", "Mùa hạ mãi xa", "Mưa trên cuộc tình"...
Anh nổi tiếng với nhiều ca khúc được yêu thích, đồng thời là cây guitar bass của ban nhạc Da vàng. Còn chị là ca sĩ đoạt giải nhất Tiếng hát truyền hình năm 1991. Cả hai sống trong căn nhà riêng được mua bằng số tiền hai người dành dụm. Cưới nhau rồi, Lê Quang vốn hay đi sớm về khuya, nay sống có trách nhiệm hơn. Thời gian Cam Thơ mang thai cũng chính là lúc những sáng tác của Lê Quang chín nhất, nhiều ca khúc của anh liên tục có mặt trong Làn sóng xanh. Lê Quang yêu con lắm, bé Lê Bình Phương Nhi lúc nào cũng quấn quýt bên bố. Anh còn là người biên tập cho album của bà xã mình. Từ ngày Lê Quang bận rộn với công việc hòa âm, phối khí, biên tập, buổi tối còn đi chơi nhạc ở các tụ điểm, Cam Thơ đành hy sinh ở nhà giữ con, nấu những món ăn ngon. Với chị, đây cũng là hạnh phúc của một người mẹ, người vợ. Bất cứ ngày lễ nào trong năm, Lê Quang cũng tặng quà cho vợ. Cuối tuần, anh thường đưa bà xã và con gái đi du lịch. Để có một khoảng trời bình yên cho gia đình, anh chị luôn tin tưởng nhau.

Ba năm trở lại đây, anh gây được ấn tượng mạnh mẽ trong lòng công chúng trẻ bằng những ca khúc "Bạn tôi", "Tiếng rao", "Tình 2000", "Rock con diều"... Một cá tính mạnh mẽ có giọng điệu riêng, nhưng anh là một chân dung lặng lẽ ngoài đời. - Cơ duyên nào đưa anh đến với nghiệp nhạc sĩ? - Tôi mê nhạc từ nhỏ. Lúc còn học phổ thông ở Hàm Tân (Bình Thuận), tôi đã xác định phải đi theo nghiệp sáng tác một cách chuyên nghiệp, tức là phải học hành bài bản. Cuối những năm 80, tôi nộp đơn vào Nhạc viện. Vì lý lịch, tôi không có giấy báo thi. Tôi vào Vũng Tàu học nghề chụp ảnh. Nhưng niềm khát khao được sáng tác không lúc nào hết cồn cào trong tôi. Năm 1993, tôi thành công khi tìm đường vào Nhạc viện. Các giảng viên thường đề cao nhạc cổ điển, khuyến khích tôi chuyên sâu sáng tác khí nhạc. Tuy nhiên, hơn ai hết, tôi biết mình muốn gì. - Theo anh, điều khó nhất cho các nhạc sĩ trẻ giai đoạn hiện nay là gì? - Khi giới nhạc sĩ trẻ chưa có giọng điệu riêng biệt, khó nhất với tôi là tìm được cái gì mới mẻ nhưng vẫn có tính đại chúng. Đại chúng mà không mới thì tầm thường, mới mà không đại chúng thì lập dị. Nói thật, làm nhạc sĩ mà không có người nghe thì ngán lắm. Tôi luôn muốn biết số đông khán giả cần gì, có thể chấp nhận điều gì. Nhạc của tôi xác định hai mảng rõ rệt: mảng đề tài xã hội như Bạn tôi, Tiếng rao, các ca khúc Nhạc trẻ như Tình 2000, Rock Xuân, Sóng. Năm mới, tôi có hai bài hát rất ưng ý đã dịch sang tiếng Anh. Tôi hy vọng ca khúc này giúp đưa tiếng hát Mỹ Lệ ra ngoài biên giới. - Anh tự tin với hướng đưa nhạc trẻ VN ra ngoài biên giới? - Nhạc VN muốn ra nước ngoài phải là nhạc được đầu tư chất xám và công sức. Nhạc sĩ, người hoà âm, ca sĩ phải có đẳng cấp cao, giàu kinh nghiệm và nằm trong một quỹ đạo khép kín. Tôi tin Mỹ Linh và Mỹ Lệ - hai giọng ca thông minh, có học và có chiến lược bài bản sẽ làm được một thay đổi nào đó trong thời gian sắp tới.
"Mãi cho tình lênh đênh" là ca khúc đầu tiên nhạc sĩ Võ Thiện Thanh tặng vợ - chị Trần Minh Nhã. Lúc đó, anh theo học lớp nhiếp ảnh, thầy dạy là bố vợ hiện tại bây giờ. Quê Bình Thuận mà theo học tận Vũng Tàu nên Võ Thiện Thanh ở trọ luôn nhà thầy. Lúc này, chị đang là học sinh lớp 11 nên cứ gọi anh bằng chú. Thế rồi đêm đêm, thấy "chú" Thanh ôm đàn hát và sáng tác nhạc hay quá nên cô bé Nhã đang ở lứa tuổi mộng mơ cứ len lén nhìn trộm. Xúc động trước vẻ đẹp và tình cảm ngây thơ của chị, anh đã tặng chị ca khúc "Mãi cho tình lênh đênh" và tình yêu bắt đầu từ đó. (TN)

Chàng trai quê Phú Yên này vốn là dân văn của Cao đẳng sư phạm TP HCM, rồi học khoa Lý luận sáng tác - chỉ huy ở Nhạc viện. Với cây đàn guitar và chất giọng trầm, anh từng hát ở nhiều tụ điểm ca nhạc trước khi được biết đến như là tác giả của các bản tình ca như "Bóng cả", "Về đây", "Giấc mơ mong tìm thấy"... - Vì sao anh lại chọn con đường dung hòa giữa dòng nhạc thời trang và dòng nhạc mình yêu thích? - Tôi sáng tác ca khúc bằng sự rung động của con tim mình. Tôi có làm một bài theo đơn đặt hàng nhưng may mắn đó cũng là tâm trạng và cảm xúc của mình. Sau này, có ca sĩ bảo viết cho họ bài này, dạng nọ... nhưng tôi chịu, có lẽ vì thế mà mãi nghèo... - Anh thấy dòng nhạc trẻ năm 2002 ra sao? - Nó đang bị bão hòa. Tôi nghĩ năm tới mà không tạo được cái mới và quyến rũ thì nhạc trẻ sẽ yếu dần. - Dự định của anh trong năm nay? - Cả năm 2002, tôi ém mình để chuẩn bị cho album đầu tay với 10 ca khúc do tôi hát. Tôi góp nhặt dần rồi tự làm. Album có 8 bài tôi sáng tác và 2 ca khúc nước ngoài tôi viết lời. Dự định ra mắt đầu xuân 2003 này. Tôi mong sẽ mang lại rung động chân thành tới những trái tim yêu... - Còn chuyện riêng tư của anh thế nào? - Nhiều lúc viết xong một bài hát mới, tôi muốn la lên, muốn hát cho người nào đó nghe ngay lập tức, nhưng vẫn... một mình.
Nguyễn Ánh 9 -Tơ vương tiếng đàn

Nổi tiếng trong làng âm nhạc Việt Nam đã hơn 30 năm nay, Nguyễn Ánh 9 vẫn tự nhận mình chỉ là một nhạc công chơi đàn piano mà thôi. Người nhạc công cần mẫn ấy với tiếng đàn tài hoa đã làm thổn thức biết bao trái tim, đã nâng đỡ biết bao giọng hát… Ngoài tiếng đàn, Nguyễn Ánh 9 còn được làng nhạc biết đến như một nhạc sĩ viết không nhiều (chỉ 30 bài) nhưng bài nào cũng có một dáng dấp riêng biệt, sang trọng và đều giành được ngôi vị trong lòng người nghe. Nguyễn Ánh 9 viết nhạc như viết cho những kỷ niệm của riêng mình và luôn tin rằng sẽ có ai đó thưởng thức như một sự chia sẻ. Hầu hết nhạc của Nguyễn Ánh 9 được viết cho phim, cho kịch. Chỉ có điều, khi từ kịch, từ phim bước ra, các ca khúc của ông luôn làm xao động trái tim của những khán giả nơi sân khấu ca nhạc. Bởi một lẽ giản dị, bao nhiêu tâm huyết và sự trau chuốt về giai điệu và ca từ đã đồng điệu cả trong từng ca khúc mà ông trao cho ca sĩ. Người xem phim nhớ mãi nhạc Nguyễn Ánh 9 trong các phim: Xóm nước đen, Mênh mông tình buồn, Ráng chiều, Dòng sông thao thức (kịch)… Người yêu nhạc thì có cả một sưu tập tình khúc lừng danh của ông: Không, Ai đưa em về, Buồn ơi chào mi, Cô đơn, Tình yêu đến trong giã từ, Tình khúc chiều mưa… Với ca khúc của Nguyễn Ánh 9, dù người thể hiện là Ánh Tuyết (Cô đơn) hay Elvis Phương (Không), là Cẩm Vân (Tình khúc chiều mưa) hay Mỹ Tâm (Biệt khúc) thì giai điệu và ca từ vẫn được nâng niu như gửi gắm của người sinh ra nó. Thời gian có thể trôi qua, còn những tơ vương của tiếng đàn và nốt nhạc tài hoa thì ở lại.

An Thuyên đã được đông đảo công chúng yêu âm nhạc biết đến từ tác phẩm đầu tay Em chọn lối này, viết năm 1971 (khi anh tròn 21 tuổi). Rồi đến Ðêm nghe hát đò đưa nhớ Bác (1974), Khi xe tăng qua miền quan họ (1984), Huế thương (1992), Neo đậu bến quê (1993)... Tất cả đều mang âm hưởng dân ca ngọt ngào sâu lắng. Hãy nghe anh tâm sự xung quanh những vấn đề âm nhạc, về bản lĩnh sáng tác... - Mỗi người đều có một hoàn cảnh riêng biệt. Tôi sinh ra và lớn lên từ vùng quê nghèo (huyện Quỳnh Lưu- Nghệ An), ở đó dân làng có truyền thống văn nghệ dân gian. Những buổi chiều chăn trâu, những tiếng sáo diều tiếng cồng chiêng của đồng bào dân tộc ít người đã ăn sâu vào tiềm thức của một "đứa trẻ". Môi trường thuần chất âm nhạc dân gian có một sức cuốn hút kỳ lạ với những người như tôi... và dòng sữa ban đầu về thế giới âm nhạc đó đã tác động trực tiếp đến thiên hướng sáng tác của tôi của sau này. + Nhạc sĩ đã sử dụng rất thành công chất liệu dân ca trong sáng tác của mình. Nhạc sĩ có thể nói rõ hơn về chất liệu ấy? - Tôi đã được lớn lên trong dòng sữa âm nhạc dân gian. Nhưng điều đấy không có nghĩa là chất liệu đó sẽ vào trong sáng tác của mình. Ðiều cốt lõi là người nhạc sĩ phải biết nâng niu, gọt giũa, kết hợp cái thuần tuý thắm đượm của âm nhạc dân gian, cái tri thức âm nhạc dân gian với tri thức âm nhạc bác học hiện đại. Có như vậy mới tạo ra được những tác phẩm tân thời hiện đại mà đậm đà chất liệu dân ca. + Ðã gần 30 năm sáng tác, đứa con tinh thần nào nhạc sĩ cho là tâm đắt nhất? - Xin được trả lời ngay rằng đó là tác phẩm đầu tay Em chọn lối này viết khi tôi vừa tròn 21 tuổi. Khi mà bản thân chưa được học một chút gì về sáng tác; nhưng ở đó, cái chất liệu dân ca, cái tự nhiên, cái máu thịt, cái khí trời đã thực sự vận động. Và đến bây giờ tôi vẫn đang học cái tự nhiên, giữ mình quay lại điểm xuất phát, xem đó là "một chuẩn mực- khuôn mẫu để hoàn thiện những tác phẩm sau này. + Thưa nhạc sĩ, đã có ý kiến cho rằng An Thuyên quá "liều lĩnh" khi "dám cắt nửa vầng trăng... chặt đôi câu thơ" (ca khúc Ca dao em và tôi)? - Ðó là một cái gì rất ca dao, rất dân gian. Ngày xưa cụ Nguyễn Du cũng đã từng có Vầng trăng ai xẻ làm đôi, nửa soi gối chiếc, nửa soi dặm trường. Nói lên nổi nhớ trong tình yêu của các chàng trai, cô gái nhưng nổi nhớ ở đây còn thụ động, thiếu sức mạnh... Với lẽ đó, đòi hỏi con người hôm nay- mà tôi là nhạc sĩ phải có một lối tư duy, cách nhìn nhận mới "nhìn dân gian của người hiện đại" Dám cắt nửa vầng trăng để làm con đò nhỏ, dám chặt đôi câu thơ để làm mái chèo lướt sóng... Tất cả chỉ để đưa tôi về với người tôi yêu. Thể hịên được tính chủ động, quyết đoán, sức mạnh phi thường của tình yêu mà dân gian chưa có. Cái khó là để làm sao trong từng sáng tác của mình, công chúng "nghe thì quen nhưng ngẫm lại lạ". + Xin được hỏi "nhạc sĩ dân ca" câu cuối cùng. Có bao giờ nhạc sĩ sợ dẫm lên chân của người khác và chân của chính mình không? - Sao lại phải sợ điều đấy! Nếu dẫm lên chân của người khác mà không dẫm gai thì thật là tuyệt. Mấy ai mà không thừa hưởng tinh hoa của những người đi trước đâu. Ðiều cốt yếu là mình phải biết "gợn đục khơi trong" tìm ra được cái riêng mình, cái không giống một ai chính trên điều tinh hoa ấy. Âm nhạc dân gian giống như một dòng sông mênh mông, mát rượi, nếu anh sợ (anh không tắm) thì thật là phí. Nhưng nếu anh tắm mà không biết bơi thì sẽ... chìm. Cũng như khai thác âm nhạc dân gian, nếu không có cách nhìn mới, cảm thụ mới thì sẽ trở nên khô cằn và đơn điệu. + Xin cảm ơn nhạc sĩ

"Ông sinh ngày 25 tháng 2 năm 1933, quê tại xã Tịnh Khê (Sơn Mỹ), huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quãng Ngãi. Là hội viên hội Nhạc sĩ VN, đồng thời là hội viên hội Nhà báo VN. Trong kháng chiến chống Pháp, Trương Quang lục đã có một số bài hát được phổ biến như: Chuyến tàu trăng, Bảo vệ hòa bình, Đố cờ, Hoa bên suối. Sau hòa bình, ông chuyển ra miền Bắc vừa làm kỹ sư hóa chất ở nhà máy Super - Phosphate Lâm Thao, ông vừa sáng tác ca khúc và nhiều tác phẩm ra đời ở đó. Trong thời kỳ này, ông đã có những ca khúc được công chúng yêu thích với: Cô gái Lâm Thao, Tiếng hát bên rừng, Vàm Cỏ Đông, Hoa sen Tháp Mười, Quảng Ngãi đất mẹ kiên cường... cũng như một số bài hát thiếu nhi: Xỉa cá mè, Em yêu đàn gà xinh, Trái đất này là của chúng em (thơ Định Hải), Tuổi mười lăm, Màu mực tím... Trương Quang Lục cũng tham gia viết nhiều nhạc phim, nhạc sân khấu, múa rối, một số bài nghiên cứu dân ca, một số bài giới thiệu những ca khúc nổi tiếng của nhiều tác giả trên báo Sài gòn giải phóng Chủ nhật. Tác phẩm đã xuất bản: Tuyển tập nhạc Trương Quang Lục (hội Văn nghệ Vĩnh Phú), Tuyển chọn ca khúc kèm băng cassette của Trương Quang Lục (NXB DIHAVINA và hội Nhạc sĩ VN, 1995). Các tác phẩm tiêu biểu: Vàm Cỏ Đông, Trái đất này là của chúng em, Tuổi mười lăm, Màu mực tím, Hoa sen Tháp Mười . Hoàn cảnh sáng tác bài hát Vàm Cỏ Đông: Một đêm khuya mùa hè năm 1966, vào thời kỳ không quân Mỹ đánh phá ác liệt miền Bắc, từ Nhà máy Xupephotphat Lâm Thao- nơi đang công tác- trở về nơi ở, ông chợt nghe trong buổi Tiếng thơ của Ðài tiếng nói VN giọng của ai đó đang ngâm bài thơ Vàm Cỏ Ðông của nhà thơ Hoài Vũ từ miền Nam gửi ra, lời thơ và giọng ngâm thật tha thiết. Ông xúc động, miên man suy nghĩ. Lên giường nằm, trước khi ngủ ông giở tờ báo Văn Nghệ vừa mới nhận được lúc chiều, lại chợt thấy đăng bài thơ Vàm Cỏ Ðông. Thế là ông ngồi bật dậy, đọc tới đọc lui bài thơ nhiều lần, chọn những đoạn thích hợp nhất và phổ nhạc. Chỉ sau hơn một tiếng đồng hồ, ca khúc Vàm Cỏ Ðông đã hoàn thành.
VÀM CỎ ĐÔNG Nhạc : Trương Quang Lục Thơ: Hoài Vũ Ở tận sông Hồng em có biết. Quê hương anh cũng có dòng sông. Anh mãi gọi, với lòng tha thiết. Vàm Cỏ Ðông, ơi Vàm Cỏ Ðông. Ơ ơi Vàm Cỏ Đông, ơi hỡi dòng sông. Nước xanh biêng biếc chẳng đổi thay dòng, đuổi pháp đi rồi nay đuổi Mỹ xâm lăng. Giặc đi đời giặc, sông càng xanh trong. Giặc đi đời giặc, sông càng xanh trong. Ơ ơi Vàm Cỏ Đông, ơi hỡi dòng sông. Có anh du kích dũng cảm kiên cường, lẫn ánh trăng mờ băng lửa đạn qua sông, Diệt tan tàu giặc, giữ gìn quê hương. Diệt tan tan tàu giặc giữ gìn quên hương. Vàm Cỏ Ðông đây, Vàm cỏ đông đây. Ta quyết giữ từng chiếc xuồng tấm lưới cây dầm. Từng con người làm nên lịch sử và dòng sông trong mát quanh năm. Vàm Cỏ Ðông đây, Vàm Cỏ Ðông đây. Ta quyết giữ từng mái nhà nép dưới rặng dừa. Từng thuở ruộng người đen màu mỡ tình hò hẹn sớm trưa. Ở tận sông Hồng em có biết, quê hương anh cũng có dòng sông. Anh mãi gọi với lòng tha thiết. Vàm Cỏ Ðông, ơi Vàm Cỏ Ðông. Vàm Cỏ Ðông, ơi Vàm Cỏ Ðông. |
Nhạc sĩ Nguyễn Cường - Tôi phải lòng cả Tây Nguyên

""Người làm nghệ thuật nào cũng có tác phẩm không hài lòng. Chúng tôi thường gọi đó là những đứa con hoang. Tôi về đây nghe sóng là một trong những sản phẩm ngoài ý muốn như vậy", nhạc sĩ tâm sự. Thực lòng viết xong, tôi không ưa "hắn" lắm. Chẳng hiểu sao. Thế nhưng "hắn" chẳng tủi thân mà rời bỏ tôi. Hắn sống khoẻ mạnh, sống hồn nhiên trong lòng công chúng mấy chục năm qua và thỉnh thoảng lại về gõ cửa nhà tôi qua giọng hát của một vài ca sĩ. Một đứa con hoang nữa là ca khúc Em muốn sống bên anh trọn đời. Khi viết xong bài hát này, tôi tìm đến một người bạn rất thân là nhạc sĩ Dương Thụ và hăm hở hát cho cậu ấy nghe. Ai dè cậu ấy bảo: Mày viết bài này không hay, như hủi ý. Thế là tôi ném nó vào ngăn kéo, cho nó thành con hoang. Rồi quên luôn. Một lần Y Moan đến chơi, hỏi: Thầy có bài gì cho em hát với. Rồi nó lôi Em muốn sống bên anh trọn đời ra tập hát. Bài này gắn với Y Moan từ đó và thật ngạc nhiên nó rất được người nghe yêu thích. Đôi lúc ngồi nghĩ tôi thấy buồn cười, hoá ra mình cũng chỉ là một người nghe bình thường đối với âm nhạc của chính mình. Khi nhạc sĩ cho ra đời đứa con tinh thần rồi thì không thể tự định đoạt được số phận của nó nữa. Quyền năng tối thượng ấy thuộc về khán giả. Sau mỗi chuyến đi thực tế, tôi để mình lắng lại, rồi dốc toàn bộ lực sống và viết khi lòng mình thực sự đòi hỏi. Mỗi bài hát của tôi thường có bóng dáng của người con gái, hoặc là một đôi mắt rất ám ảnh. Có người hỏi tôi rằng hình như anh phải lòng rất nhiều cô gái Tây Nguyên. Không, tôi phải lòng cả Tây Nguyên. Đó là một vùng đất tôi yêu tha thiết, mảnh đất khởi nguồn cho mọi rung động, mọi cảm hứng sáng tác của tôi.

"Nhạc sĩ Thanh Tùng sinh ngày 15/09/1948 tại Gò Vấp, tập kết ra Bắc năm lên sáu. Năm 23 tuổi anh tốt nghiệp tối ưu đẳng Nhạc viện Bình Nhưỡng (Triều Tiên). Từ năm 1971 - 1975 là chỉ huy dàn nhạc Ðài Tiếng nói Việt Nam II, anh là người có công xây dựng Dàn nhạc nhẹ Ðài Truyền Hình TP.HCM và khai sinh nhóm hợp ca Những làn sóng nhỏ. Ðã viết khoảng 200 ca khúc, trong đó phần lớn bắt nguồn từ việc dàn dựng phong trào cho các địa phương. Nhạc sĩ Thanh Tùng là một trong những nhạc sĩ có album riêng sớm nhất sau ngày giải phóng. Thanh Tùng lãng mạn bẩm sinh nên cô đơn bẩm sinh, tuổi ấu thơ sống với bà ngoại và mẹ càng tạo điều kiện cho khí chất lãng mạn nảy nở, niềm cô độc có đất để lớn nhanh và dìm anh vào nhân cách hướng nội, khó kết bạn. Anh sinh ở Sài Gòn, trưởng thành ở miền Bắc. Chính quê hương thứ hai này - mảnh đất Hà Thành đầy những hồ, chốn lý tưởng để suy niệm - mới hợp với thể tạng lãng mạn của anh, để lại trong anh nhiều kỷ niệm đẹp, trong đó có cả tình yêu. Mỗi bài hát của Thanh Tùng, kể từ bài đầu tay "Cây sầu riêng trổ bông" viết năm 1975, ở tuổi 27, cho một vở cải lương, đều gắn bó với một tâm cảm bất chợt nhưng không kém mãnh liệt. Ý tứ lời ca rất giản dị nói về nỗi đau, cuộc được thua bằng một giọng thản nhiên, song đó là cái thản nhiên của người đã từng vắt khô lệ và máu của mình. Thanh Tùng không hay nói về cõi mộng, không đào bới những tiên cảm để tìm lấy sự hợp lý cho mình. Anh viết như đi chân trần trên cát bỏng, tận hưởng nỗi đau một thân một mình và không đòi hỏi chia sẻ. Vậy đó, Thanh Tùng dám trần thân nhận chịu những bất trắc do sự mơ mộng tác thành, không áp đặt chúng cho người khác. Giai điệu và cách phát triển ý nhạc của anh tuân theo những nguyên tắc kinh điển của pop ballad: mở toang, thanh thoát và dành nhiều "đất" cho dàn nhạc phô diễn. Nhờ đầu tư kỹ về nền hòa âm, anh tạo được khoản tự do cần thiết cho sự ứng tác của ca sĩ. Thiên hướng tự do ấy ngày xưa vốn được coi là đặc điểm của dòng romantism Âu Châu. Vật lộn mưu sinh để nuôi nghệ thuật, để được làm nghệ thuật một cách tự do và hết mình, Thanh Tùng quả có được lòng can đảm của kẻ leo núi. Ai bảo người leo núi không lãng mạn ?
(Quốc Bảo - Thế Giới Âm nhạc)

"Viết bài đầu tiên "Tình nghệ sĩ" năm 24 tuổi (1948), tuổi bắt đầu dấn thân vào cuộc đời, vào tình yêu để cho đến gần mười năm sau, thành một chùm bài hát đều đặn "mười phân vẹn mười" như đã được biết: Tình nghệ sĩ, Lá đổ muôn chiều, Gửi gió cho mây ngàn bay, Chuyển bến, Cánh hoa duyên kiếp, Thu quyến rũ, Tà áo xanh, Lá Thư, Gửi người em gái miền Nam, Đường về Việt Bắc. Có lẽ trong các nhạc sĩ Việt Nam, Đoàn Chuẩn mới là người có thể kể ra đầy đủ tác phẩm một cách không cần dùng dấu ba chấm đến như vậy. Tất nhiên, sự nghiệp sáng tác của ông không gọn gẽ một cách lạ lùng như thế. Ông viết thêm khoảng 6 ca khúc rải rác cho quãng thời gian sau này, nhưng tinh hoa phát tiết đã trọn vẹn trong 10 năm ấy, 10 tác phẩm ấy. Sinh ngày 15/6/1924, tại Hải Phòng, mảnh đất có nhiều nhân vật đóng góp lớn cho nền âm nhạc Việt Namthời điểm khởi đầu: Lê Thương, Văn Cao, Hoàng Quý, Hoàng Phú (Tô Vũ)... Trong đó, chính nhóm Đồng Vọng mà Hoàng Quý chủ xướng đã tạo nên không khí sáng tác cho dòng nhạc lãng mạn thời gian này. Đoàn Chuẩn lại trưởng thành ở Hà Nội, không những thế, lại còn trong một gia đình tư sản cỡ lớn: Hãng nước mắm Vạn Vân (Hà Nội đầu thế kỷ từng có câu: Cốm Vòng, cà Báng, húng Láng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét), hãng này nổi tiếng khắp Đông Dương. Đi kháng chiến, thì Đoàn Chuẩn vẫn là công tử Hà thành chính hiệu. Cả 10 bài hát viết trong thời gian kháng chiến mà người ta không thấy bóng dáng kháng chiến ở chỗ nào! Ông đã nhận mình là "tay mơ" trong sáng tác, và trong cả... tình yêu. Chẳng hạn, Tình nghệ sĩ là khi đi tản cư, do mê một cô nàng bán hàng cà phê xinh đẹp người Hà Nội. Quán tên là Thanh Hương, vì thế ban đầu nhạc sĩ nghĩ : "Đây quán Thanh Hương mấy thu đầm ấm..." sau đó, mới thành "Đây khách ly hương mấy thu vàng ấm. Nơi quán cô đơn mơ qua trùng sóng...". Cũng may, không thì ngày nay Tình nghệ sĩ lại không còn quảng đại mà sẽ bị gói trọn trong hai chữ Thanh Hương xa xôi ngày nào. Tự nhận mình là đa tình, thích gái đẹp. Có lẽ chính vì thế, khi có gia đình rồi, có được người vợ cũng đẹp lắm rồi, ông "hết hứng" viết. Chính bản thân ông cũng thành thật nói lên một điều "rất đáng tiếc" của mình cuối đời là tiếc sao "Tất cả những cô ca sĩ hát nhạc Đoàn Chuẩn - Từ Linh hay thì... chẳng có cô nào đẹp cả", mà ông suốt đời chỉ yêu cái đẹp thôi! Ngay cả bút danh Từ Linh ký chung trong các bản nhạc của ông cũng là một kỷ niệm đẹp. Từ Linh vừa là bạn, vừa là tri âm. Người, không biết thực hư thế nào và trong những câu chữ nào, đã sửa soạn góp ý cho những bản thảo của Đoàn Chuẩn. Từ Linh đã mất vì ung thư năm 1992. Cũng thật may mắn, người hát nhạc Đoàn Chuẩn lại là Khánh Ly, và vài chục năm sau đó, ca sĩ Ánh Tuyết đã làm sống lại những ca khúc bất hủ này trong một tâm trạng mới, một luồng cảm xúc mới và một hơi thở mới...
Nhạc sĩ Trần Minh Phi với ca khúc đặt hàng

"Nhiều người nghe thấy ca khúc vận động, ca khúc đặt hàng là dị ứng. Nhưng với người sáng tác chuyên nghiệp thì viết theo đặt hàng cũng có điều thú vị, dù nó có thể khiến bản thân bị gò bó không thể tung hoành thoải mái kỹ thuật, cảm xúc", nhạc sĩ Trần Minh Phi tâm sự. * Anh thường viết theo đơn đặt hàng của ai? - Đặt hàng của ban tổ chức, tức là tham gia các cuộc vận động sáng tác, tôi mới dự thi viết ca khúc cho đám cưới (báo Tuổi Trẻ), ca khúc sinh nhật (báo Mực Tím)... Còn chủ yếu là viết theo đặt hàng của ca sĩ như Thanh Thảo, Nguyễn Phi Hùng, Minh Thuận, Đan Trường, nhóm Ngẫu Nhiên và một số ca sĩ mới vào nghề khác... * Anh nghĩ gì về kiểu viết đặt hàng này? - Một số ca khúc, dù không được chất lượng lắm nhưng vẫn tồn tại. Ca sĩ đặt hàng, nếu bài dở, thì có thể không lấy bài đó. Còn Nhà nước đã đặt hàng thì tôi chưa thấy có bài nào bị loại, dù không hay. * Đấy có phải là cách biện minh cho thực tế chúng ta đã có không ít các cuộc vận động, thi thố, đặt hàng, có trao giải khá tốn kém, tổng kết thành công cả, nhưng rồi hầu hết những tác phẩm đó trôi vào quên lãng? - Chúng ta phải thừa nhận với nhau là chỉ có rất ít những ca khúc được giải tiếp tục có mặt trong đời sống, tồn tại được thường lại là những bài không giành giải cao. Nhưng điều đó không có nghĩa các cuộc vận động hay đặt hàng hiếm bài hay. Một bài hát không tự thân khẳng định mình được. Yếu tố dàn dựng (phối khí, ban nhạc và quan trọng đặt biệt là ca sĩ phù hợp hay không) có thể hạ tác phẩm từ điểm 10 xuống điểm 5. Các cuộc vận động, đặt hàng thường mới chỉ chú trọng đến chuyện có tác phẩm, còn phần dàn dựng thì lại thiếu quan tâm đúng mức.
(Theo Thể Thao - Văn Hóa)
Bảo Phúc - nhạc sĩ đa tài

Từng đoạt các giải thưởng về hội họa như: Giải nhất hội họa toàn quốc năm 10 tuổi, giải ba thế giới với 104 nước tham gia do Đài Loan tổ chức. Nhạc sĩ Bảo Phúc được công chúng biết đến trong lĩnh vực sáng tác với "Những nẻo đường phù sa", "Mê khúc", "Gót hồng", "Kẻ rong chơi cuối thế kỷ", nhưng anh lại kiếm cơm bằng nghề viết nhạc phim, hòa âm và làm biên tập viên cho Vafaco. Ngoài ra, anh còn dàn dựng show ca nhạc từ nghiệp dư đến chuyên nghiệp. Bảo Phúc - nhà vô địch hòa âm nhạc Trịnh Công Sơn Ở thời điểm này, anh đã hòa âm phối khí hơn 360 ca khúc trong số 650 bài hát của nhạc sĩ họ Trịnh đã cung cấp cho các hãng băng đĩa. Giới âm nhạc đùa vui anh rằng, xem ra đây là một kỷ lục khó phá. (Theo Thanh Niên) Không chỉ giỏi chuyện kiếm tiền, anh còn rất sành điệu trong chuyện tiêu tiền: Khoái ăn ngon và rất rành các chỗ ăn, thích uống rượu hàn huyên với bạn bè, thích thời trang. Bảo Phúc không bao giờ chơi hàng hiệu mà đôi khi tự thiết kế mẫu thời trang cho mình. Anh thích nhẩn nha ở Đà Lạt, Nha Trang vì những nơi đó có núi đồi và biển cả, dễ nảy sinh cảm xúc để sáng tác. Anh có thể ngồi suốt 12 tiếng trong phòng thu. Một tháng có thể viết hòa âm một hơi 40 ca khúc, có thể nhận nhiều show một lúc. Thoắt Hà Nội, thoắt Đà Nẵng, số lượng tác phẩm của anh đã lên tới con số 80.

Tên khai sanh tôi là Nguyễn Hồng Xuân, khi lớn lên đi tham gia cách mạng, trong giao dịch thư từ công tác, thỉnh thoảng tôi nhận được thư ngoài phong bì đề: Mến gởi chị Hồng Xuân. Qua nhiều lần tôi cảm thấy tự ái vì mình đường đường là con trai mà có ai đó cố ý hay vô tình định lẳng mất đi cái thiên chức mày râu của mình thì thất bại quá, thậm chí nguy hiểm nữa. Dù vậy, tôi vẫn giữ tên ấy trong khai sanh của mình. Nhưng khi bắt đầu sáng tác nhạc tôi đảo ngược lại theo kiểu hợp âm đảo một, trong luật hòa âm của âm nhạc để nghe cho có vẻ khỏe hơn, nhưng rồi Xuân Hồng cũng chẳng cứng cáp gì hơn Hồng Xuân. Tuy nhiên, có điều làm tôi thú vị, bởi lẽ, qua văn học nghệ thuật, nói cụ thể là qua chữ nghĩa, nhất là qua tác phẩm, làm cho sự tưởng tượng của con người đẹp thêm lên. Đó chính là điều kỳ diệu của nghệ thuật. Tôi sinh tại thị xã Tây Ninh trong một gia đình nông dân, được đặt cái tên mỹ miều Xuân Hồng khi còn nằm trong bụng mẹ. Có lẽ vì cha tôi thích có con gái sau khi đã có con trai. Tuy làm nghề nông, nhưng ông thân sinh ra tôi có chút ít chữ nghĩa, thích đọc thơ, ca, truyện sử. Ông cụ thích nhất là thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu và truyện Kiều, biết nhiều sử tích chuyện đời xưa và yêu âm nhạc, sử dụng thành thạo hai nhạc cụ gọi là độc huyền cầm (còn gọi là đàn bầu) và đàn cò (còn gọi là đàn nhị). Thỉnh thoảng cụ hòa nhạc với bạn bè, nhưng thường xuyên chơi một mình, nhứt là vào lúc đêm khuya thanh vắng. Tôi có hai anh em trai (tôi là em) nhưng không biết ba tôi nhận xét như thế nào mà cụ chỉ dạy đờn cho mỗi mình tôi. Cụ hỏi tôi muốn học cây đờn nào, tôi chọn cây đờn độc huyền, còn đờn cò tôi không thích vì thấy người kéo đờn ngồi coi bộ xấu tường quá. Lúc tôi lên năm tuổi, ba tôi bắt đầu dạy tôi đờn theo kiểu truyền ngôn và tôi học tương đối nhanh, được các cụ khen là "sáng dạ". Khi chưa đi học chữ, tôi đã thuộc lòng và có thể đờn được hàng chục bài nhạc cổ loại ngắn như: Bình bán, Kim tiền, Ngũ điểm, Bài tạ, Hành vân, Lưu thủy đoản, Lạc âm thiều, Long hổ hội, Tam pháp nhập môn, v.v... Sau khi biết đọc, biết viết cụ bắt tôi phải học cách đọc thuộc lòng theo bản đờn nhạc cổ hò xự xang xê cống... tập đờn và hòa tấu với cụ. Cuộc đời tôi không may mắn trên con đường học nhạc. Trong lúc tôi đang say mê học tập thì ba tôi lâm bịnh và mất lúc tôi mới mười ba tuổi. Tuy không có người dạy tiếp nhưng tôi vẫn tiếp tục chơi theo sự hiểu biết. Ngoài những bài bản đã học, tôi còn bắt chước được vài ngón rao (dạo đờn) của ba tôi mà nhiều người chung quanh nói rằng nghe rất giống tiếng đờn của ông cụ. Ba tôi mất cả nhà đều hết sức đau khổ, nhứt là mẹ tôi. Vì quá buồn nên tôi bỏ bẵng đi một thời gian không đờn ca. Đến một lúc nỗi buồn đã nguôi ngoai, tôi lại đem đờn ra chơi và cứ mỗi lần đánh đờn là hầu như lần nào tôi cũng đều có dạo lại vài câu rao đã bắt chước được của ông già. Thỉnh thoảng về đêm, sau khi học bài, làm bài, tôi lấy độc huyền ra chơi một mình và những lần như vậy đều bị mẹ tôi rầy. Tôi chưa hiểu vì sao khi ba tôi còn sống, mỗi khi ông chơi đờn mẹ tôi rất thích nghe, đối với tôi, mẹ thường nhắc tập đờn, bây giờ mỗi lần chơi đờn bà lại rầy la con. Đôi lúc tôi nghĩ nông cạn, có lẽ vì không muốn tôi thức khuya ảnh hưởng tới học hành bà mới la rầy khuyên bảo. Về lý do, bà thường nói: "Ban đêm không nên đờn, vì ma quỉ nó vào nó nghe". Vốn cũng không mấy gì sợ ma, vả lại, ban ngày bận đi học, ít có thì giờ nên tôi thường chơi đờn về đêm. Nhiều lần rầy bảo mà tôi vẫn không thôi đến nỗi mẹ tôi phải dọa rằng: "Con không nên chơi độc huyền nữa vì chơi loại đờn này sớm muộn gì cũng bị đui mù. Con khộng thấy mấy người đờn độc huyền đi ăn xin ngoài chợ đó sao". Và cây đờn độc huyền chấm dứt đối với tôi từ đó. Ôi ! Sự non dại của tuổi nhỏ, sự khờ khạo vô tình đôi khi thật đáng trách. Tôi có biết đâu mỗi lần nghe lại tiếng đờn độc huyền như gợi lại trong tâm tư mẹ tôi nỗi buồn nhớ khôn cùng về một quá khứ không bao giờ lập lại được, đó là hình ảnh của cha tôi và tiếng đờn nỉ non ảo não của Người. Giờ đây mỗi lần nhớ đến chuyện ấy tôi vẫn còn thấy nao nao trong lòng vì nỗi ân hận.

"Mặt hồ Gươm vẫn lung linh mây trời. Càng tỏa ngát hương thơm hoa thủ đô... Hà Nội đó, niềm tin yêu hy vọng. Của núi sông, hôm nay và mai sau... Chân ta bước lòng ung dung tự hào... Ôi Ðông Ðô, hùng thiêng núi sông còn in nơi đây. Ôi Thăng Long, ngàn năm chiến công rạng danh non sông"... (Hà Nội niềm tin và hy vọng). Chỉ với bài hát này, nhạc sĩ Phan Nhân xứng đáng được ghi danh vào lịch sử âm nhạc Việt Nam. Không sáng tác nhiều như những nhạc sĩ khác, nhưng những bài hát của Phan Nhân hầu như là những ca khúc vượt thời gian, để lại trong lòng thính giả nhiều tình cảm sâu sắc, trong đó có thể kể đến một số tác phẩm như: Hà Nội niềm tin và hy vọng, Em ở nơi đâu, Thành phố của tôi, Trên quê hương Minh Hải, Tình bạn già, Cây đàn guitar VictoHara... Ông tên thật là Nguyễn Phan Nhân, quê ở Bình Ðức, Long Xuyên, An Giang, sinh năm 1930, tại Long Xuyên-An Giang. Ngay từ nhỏ Phan Nhân đã tỏ ra là một cậu bé thông minh và có năng khiếu về nghệ thuật, đặc biệt là trong âm nhạc. Lên đến bậc PTTH, xa gia đình lên Cần Thơ trọ học, những lúc buồn ông lại cùng bạn bè "nghêu ngao" vài câu hò Nam bộ chân chất, mộc mạc để vơi đi nỗi nhớ nhà. Ðặc biệt cứ mỗi khi đến tiết học môn thanh nhạc, là ông lại cảm thấy như có một niềm đam mê kỳ lạ cứ cuốn lấy ông vào trong từng giai điệu, nốt nhạc. Tốt nghiệp xong, theo tiếng gọi của quê hương ông gia nhập quân ngũ, tham gia kháng chiến chống Pháp, và cũng chính trong môi trường đó, Phan Nhân đã "tập tành" sáng tác như một nhạc sĩ nghiệp dư, bởi vốn âm nhạc của ông lúc đó chỉ là những gì ông đã được học ở bậc trung học. Trong những cuộc liên hoan giao lưu của đơn vị với nhân dân, anh lính trẻ Phan Nhân thường tham gia góp vui bằng những bài hát do chính mình sáng tác, và được sự cổ vũ nhiệt tình của mọi người. Những câu động viên, khen ngợi của mọi người như tiếp thêm sức mạnh cho ông, thế là những bài hát lần lượt ra đời, mang chủ đề chính là tình quân dân như "cá với nước" keo sơn gắn bó trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Trong số những bài hát ông sáng tác hồi ấy, có thể nói bài hát "Tiếng tơ lòng" (1953) còn đọng lại nhiều nhất trong lòng bạn bè. Bài này được ông sáng tác trong những đêm trăng thanh bên bờ suối trên đinh Cấm Sơn khi cùng đơn vị đóng quân ở Long Châu Hà - Thất Sơn, cùng với nhân dân phối hợp đánh các đồn bót của địch trên các tuyến đường An Giang - Tịnh Biên - Châu Ðốc. Năm 1954 từ Quân đội nhạc sĩ Phan Nhân chuyển về đoàn Tuyển văn công Nam bộ rồi tập kết ra Bắc. Năm 1959, chuyển về công tác tại Ðài tiếng nói Việt Nam, với tư cách là một Biên tập viên kiêm phóng viên ông được đi rất nhiều nơi. Mỗi chuyến đi đối với ông như là một lần được tiếp thêm sức sống, bởi ông được gần gũi với tiếng nói, kho tàng dân ca của các dân tộc... tất cả làm xao động trong lòng ông, thôi thúc ông sáng tác. Dù vốn là một thanh niên Nam bộ, nhưng ông rất mê những làn điệu Dân ca đồng bằng Bắc bộ, Chèo cho tới quan họ Bắc Ninh... vì thế trong những sáng tác của ông, ta thấy có sự ảnh hưởng ít nhiều của những làn điệu này như bài hát "Em ở nơi đâu" viết về tình cảm cao quý, chân thật của những anh bộ đội lái xe đối với những cô thanh niên xung phong đi mở đường. Trong chiến tranh ban đêm không được mở đèn xe nên các anh không biết mặt được người con gái đã giúp mình mà "... Chỉ nghe có tiếng hát mà đem lòng yêu thương..." rồi các anh đi tìm nhưng không biết em ở nơi đâu hoặc như bài "Nhớ về PácBó" cũng mang âm hưởng của dân ca Tày, Nùng Việt Bắc. Yêu miền Bắc, yêu Hà Nội và tự trong lòng, ông đã coi đây như là quê hương thứ hai của mình. Ðể thể hiện tình yêu ấy, ông ấp ủ một ước mơ sẽ viết một bài hát về Hà Nội mà chưa biết viết như thế nào để thể hiện được sâu sắc nhất tình cảm của mình. Cho đến năm 1970, khi Phan Nhân được cử đi tu nghiệp âm nhạc ở Hungari về, thì lúc này Hà Nội đang chuẩn bị kháng chiến chống Mỹ, ông tiếp tục hăng hái tham gia. Tình hình lúc ấy rất cấp bách, nhiều khi phải đi sơ tán để tránh thiệt hại, nhưng ông được ở lại nhận nhiệm vụ đảm bảo cho những chương trình âm nhạc trên làn sóng của đài phát thanh được hoạt động bình thường. Ông trầm ngâm: "Có lẽ đây là một điều may mắn đối với tôi. Bởi khi được chưng kiến cảnh Hà Nội chống trả với bom đạn Mỹ, tôi thấy yêu Hà Nội hơn với một tình yêu da diết mà cho đến bây giờ tôi vẫn không sao diễn tả được...? Và có lẽ chính vì tình yêu ấy mà ông đã viết nên bài ca "Hà Nội niềm tin và hy vọng", một ca khúc đã làm rung động con tim của biết bao thế hệ. Trong trận "Ðiện Biên Phủ trên không", 12 ngày đêm Hà Nội chống trả với bom đạn Mỹ, hầu hết mọi người trong Ðài đều xuống hầm trú ẩn, nhưng riêng Phan Nhân thì lại chạy lên sân thượng với mong muốn được nhìn cho rõ khung cảnh Hà Nội lúc bấy giờ. Dưới làn bom đạn có thể bất cứ một viên đạn lạc nào trúng ông, nhưng Phan Nhân dường như quên đi sự nguy hiểm đó, ông đứng lặng người đi, nghĩ về Hà Nội chiều nay vẫn bình yên, mặt nước hồ Gươm vẫn còn lung linh, yên ả mà giờ đây đã đỏ trời đạn bom. B52 điên cuồng đánh phá Hà Nội thực sự là cơn hấp hối giãy giụa của kẻ chiến bại, ông đã tự nghĩ như vậy và có một niềm tin, hy vọng vào ngày chiến thắng. Cái cảm xúc ấy đã được ông đưa vào bài hát của mình. Khi bài hát "Hà Nội niềm tin và hy vọng" được công bố, ngay lập tức đón nhận được sự hưởng ứng của thính giả. Mọi người khi nghe bài hát này ai cũng xúc động bởi nó quá sống động, quá chân thực, họ như thấy được toàn bộ hình ảnh một Hà Nội anh dũng, hào hùng chống trả quyết liệt với giặc Mỹ, với một niềm tin tất thắng, từ niềm tin mãnh liệt đó quân và dân Hà Nội đã thực sự "Dệt nên tiếng ca át tiếng bom rền". Bài này đã đạt được giải A trong những bài hát sáng tác về Hà Nội. Ngoài những ca khúc trên, nhạc sĩ Phan Nhân còn sáng tác rất nhiều những ca khúc dành cho thiếu nhi: Chú ếch con, Hàng cây ơn Bác, Vườn cây của Ba (phổ thơ Nguyễn Duy)... được nhiều thế hệ thiếu nhi Việt Nam yêu thích. Năm 1969 hưởng ứng cuộc vận động sáng tác bài hát cho các em thiếu nhi, ông đã giành được giải thưởng cao với bốn ca khúc: Em là bông lúa Ðiện Biên, Chú ếch con, Em là con gái má Út Tịch, Chú cừu Mộc Châu. Theo ông, sáng tác nhạc thiếu nhi rất khó bởi tác giả phải biết hóa thân và tinh chế cho phù hợp với tâm hồn trẻ thơ, biến lý trí khô khan thành tình cảm thì các em mới cảm thụ được. Có thể nói, niềm hạnh phúc lớn nhất đối với nhạc sĩ Phan Nhân là có được một người bạn đời - NSUT Phi Ðiểu, một giọng nữ Nam bộ ta thường được nghe thấy trong mục "Ðọc truyện đêm khuya" của Ðài tiếng nói Việt Nam, và Ðài tiếng nói nhân dân TPHCM, một giọng đọc đã từng làm say mê biết bao người hâm mộ. Bà là người phụ nữ biết hy sinh, biết tạo điều kiện thuận lợi cho Phan Nhân sáng tác, bởi bà hiểu biết và cảm thông đối với sự nghiệp sáng tác của ông. Hơn nữa đối với nhạc sĩ Phan Nhân, NSUT Phi Ðiểu còn là một người đồng chí, một đồng tác giả không cần đứng tên trong những tác phẩm của mình. Nhạc sĩ Phan Nhân tâm sự: "Tôi vẫn luôn cố gắng hết mình trong công việc, đó là điều chứng tỏ mình vẫn còn có ích cho cuộc đời. Chứ là nhạc sĩ mà không còn sáng tác được thì buồn lắm. Một nhà thơ người Nga đã từng nói "đừng chết trước lúc lìa đời", tôi không muốn mình sẽ rơi vào hoàn cảnh ấy". Chính vì vậy mà mỗi tác phẩm của ông khi ra đời là cả một quá trình tìm tòi, chọn lựa, chắt lọc kỹ càng, bởi ông không muốn phụ lòng khán giả, và muốn cống hiến cho đời những tác phẩm có giá trị.

Ông tên thật là Lưu Trần Nghiệp, sinh năm 1931 ở An Giang. Bắt đầu sáng tác năm 17 tuổi. Không có tác phẩm nào tiêu biểu trong thời gian này. Phải đến gần 10 năm sau, năm 26 tuổi, khi tập kết ra Bắc, học trường Âm Nhạc Việt Nam, nhạc sĩ Hoàng Hiệp mới có bài hát đánh dấu sự nghiệp sáng tác chuyên nghiệp: "Câu hò bên bờ Hiền Lương" (Sáng tác chung với Đằng Giao, năm 1957). Từ năm 1955 đến 1975 nhạc sĩ sống ở Hà Nội. Hơn 100 ca khúc sáng tác cho dòng nhạc cách mạng ra đời ở đây. Một số ca khúc có tiếng vang ngoài Câu hò bên bờ Hiền Lương, có Cô gái vót chông, Ngọn đèn đứng gác, Đất quê ta mênh mông, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Lá Đỏ. Sau năm 1975, nhạc sĩ vào sống ở thành phố Hồ Chí Minh, ông tâm sự: “Đây là thời kỳ viết nhiều của tôi, lúc này tư duy sáng tác đang độ chín, đa dạng, ngoài ca khúc nhạc phim, sân khấu, múa, nói chung là khí nhạc, khoảng trên 100 tác phẩm, còn ca khúc tôi viết con số lên tới vài ba trăm ca khúc. Ca khúc giai đoạn này, chia làm hai hướng. Hướng kế thừa truyền thống cách mạng 20 năm trước như: Viếng Lăng Bác, Nhớ về Hà Nội, Sao anh không kể, Tổ Quốc mà không có, Đồng Nội, Khúc thơ tình cho người lính biển, Thành phố tôi yêu, Hoa Hồng, Trở về dòng sông tuổi thơ... Đó là những bài hát về quê hương, đất nước. Đây cũng là một trong hai đề tài chủ đạo của ca khúc tôi. Chủ đề thứ hai trong thời gian này là chủ đề lãng mạn, nói về tình yêu đôi lứa. Tôi còn nhớ khi ấy, vừa giải phóng xong, chưa ai tiên phong trong việc chuyển hướng sáng tác về tình yêu đôi lứa cả. Tôi lúc đó 40 tuổi, gần như là người đầu tiên với Con đường có lá me bay sáng tác năm 1977, sau đó là Mùa chim én bay, Em vẫn đợi anh về, Nơi anh gặp em, Về phía ấy tình yêu, rồi sau nữa có Đánh mất, Chiều ấy... Phải nhớ rằng, với tuổi ấy, tôi viết bằng hoài niệm, bằng tình yêu của mình với tuổi trẻ nhiều hơn chính vì thế tôi viết những gì tuổi trẻ thích". Hoàng Hiệp sáng tác nhiều như thế, nhưng ông cũng nói thêm rằng: sáng tác nghệ thuật chỉ là công việc song song với công việc thường tình hàng ngày. Ông nói về đặc điểm sáng tác của mình: Luôn trung thành với bản thân ngay từ đầu. Ông cho rằng mình đã tạo được phong cách cấu tứ riêng, tận hưởng ít nhiều âm hưởng nhạc dân tộc cũng như phối hợp âm hưởng nhạc hiện đại phương Tây. Ông hiểu nhạc mình. Ông có tài phổ thơ. Thơ với nhạc của ông là một cuộc hôn nhân rất thành công. Hơn 70% lời nhạc trở thành nổi tiếng được phổ từ thơ. "Ông có thể làm lời rất hay, như Nhớ về Hà Nội?", Ông nói:"Tôi đã gặp những bài thơ khi đang nuôi nguồn cảm xúc về đề tài nào đó", sự gặp gỡ đó là định mệnh cho hôn nhân thơ và nhạc. Ông không nghĩ gì nữa và phổ ngay, những Trường Sơn Đông-Trường Sơn Tây, Lá Đỏ là như thế. Những cuộc hôn nhân không vụ lợi. Chính vì thế mà ông có một Trở về dòng sông tuổi thơ gần đây, xao xuyến đánh thức tình yêu quê hương và tuổi thơ của bao thế hệ.

Nhạc sĩ Vũ Hoàng tên thật là Vũ Bảo Hoàng, sinh ngày 23/04/1956 tại Biên Hòa. Ông tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm TP.HCM (1976 - 1979), tốt nghiệp Khoa Sáng tác - lý luận - chỉ huy bậc Ðại học Nhạc viện TP.HCM (1984 - 1989) * Sáng tác đầu tay: "Gửi lại em" (1978) * Những sáng tác ca khúc tiêu biểu: - Gửi lại em (1978). - Hương tràm (thơ Đỗ Trung Quân - 1978). - Nói với em (1982). - Bụi phấn (viết cùng Lê Văn Lộc - 1982). - Hương thầm (thơ Phan thị Thanh Nhàn - 1984). - Phượng hồng (thơ Đỗ Trung Quân - 1988). - Cung đàn xanh (1990). - Hương quê (1994). - Khát vọng tuổi trẻ (1996). - Mùa hè xanh (1998). * Tác phẩm khí nhạc: - Sonate cung C Dur. - Giao hưởng đất nước viết cho dàn nhạc nhẹ (3 chương)... * Những ấn phẩm đã xuất bản: - 10 tình khúc Phượng hồng - NXB âm nhạc. 1990. - 15 ca khúc chọn lọc Bụi phấn - Hội âm nhạc TP.HCM. 1993. - 10 tình khúc Gửi lại em - NXB âm nhạc. 1996. - 50 ca khúc thiếu nhi Tiếng ve gọi hè - NXB âm nhạc. 1997. - Albums nhạc Hoa tím ngày xưa - Sài Gòn Audio. 1992. - Albums nhạc Vui đến trường - Vafaco. 1993. - Albums Cho hương đừng bay đi - Phương Nam phim. 1994-1999. - Albums Phượng hồng - Sài Gòn Audio. 1995. - Albums Như khói lam chiều - Trung tâm Băng nhạc Trẻ. 1996. - Vidéo ca nhạc thiếu nhi Mùa xuân tuổi thơ - đài Truyền hình TP.Hồ Chí Minh. 1995. - Albums Gởi lại em - Dihavina. 1996. - Âm nhạc viết cho phim tài liệu Những con mắt của biển và kịch bản Người gõ cửa (Đoàn kịch TP.Hồ Chí Minh), Nồi cháo trắng (Đài Truyền hình TP.HCM).

Minh Châu không còn trẻ nhưng âm nhạc của anh lại rất trẻ. Trong các ca khúc của anh, người nghe, người hát cảm nhận được, truyền cho nhau những thông điệp tích cực về cuộc sống. Anh nhìn đời bằng ánh mắt lạc quan, dù hiện tại có lắm gian nan, vất vả. "Hãy cho nhau tình thương yêu thiết tha/hãy nắm tay nhau khổ đau sẽ khuất xa" (Khúc tâm ca). "Ðời là thế, đừng sầu lo mà hãy dấn thân vào cuộc sống Dù hèn yếu, đừng dửng dưng nhìn bao nỗi đau nơi con người Hãy nâng bàn tay, bước đi cùng nhau Ta mong tung đôi cánh bay ngàn cao vời Gieo bao yêu thương xuống cõi trần gian Hãy vuốt nước mắt Hãy vui cười lên nào Ta vươn đôi vai đứng lên cùng nhau" Minh Châu tâm sự: "Tôi vốn là kỹ sư Thủy văn. Những năm tháng cực khổ đi suốt mọi miền đất nước, nhìn thấy và va chạm những khắc nghiệt nhưng không làm tôi bi quan, mà trái lại cho tôi một niềm tin vào cuộc sống. Bởi vậy khi viết nhạc, tôi luôn mang đến cho các bạn trẻ niềm tin ấy như chính tôi đã tin". Mặc dù là "nhạc xã hội", song nhạc sĩ Minh Châu đã thi vị hóa sáng tác của mình bằng những giai điệu tươi trẻ nên chúng dễ hòa nhập với giới trẻ, đến gần với họ, như bài Vũ điệu thần tiên với tiết tấu rộn rã, sôi động của điệu Mambo. Trong trào lưu nhạc thị trường hiện nay, sự hiện diện của nhạc sĩ Minh Châu không lạc lõng, mà anh được đánh giá là một cây viết mang hơi thở thời đại, tích cực và cũng hết sức lãng mạn. Thật ra, Minh Châu có sáng tác nhạc tình với một số ca khúc quen thuộc như Một đời mây gió, Tình đã tan hay Ánh sáng của đời tôi... Thế nhưng nội dung những tình khúc của anh không "não lòng", "tê tái" mà được viết nên bằng một thái độ đầy bao dung. Anh nói: "Tôi là một kẻ "bầm dập" trên đường tình, đã nhiều lần yêu và cũng nhiều lần khổ đau. Có lẽ vì thế mà tôi trân trọng tình yêu, chứ không đem tình yêu ra mà "cấu xé", "dằn vặt" nhau". Bên cạnh đó, Minh Châu còn viết những bài hát âm hưởng dân ca mà nổi lên gần đây nhất là Duyên dáng áo hoa do nhóm The Bells trình bày khá ấn tượng trong chương trình Gala 2002 tổ chức hôm Tết Nguyên đán vừa qua ở Hà Nội. Vẻ bề ngoài của nhạc sĩ Minh Châu hơi bụi với mái tóc dài, cứ ngỡ rằng khó gần nhưng khi tiếp xúc, trò chuyện rồi mới thấy anh là người sống rất tình cảm. Anh sẵn lòng giúp đỡ các bạn trẻ chập chững bước vào nghề ca hát, thậm chí còn tự nguyện đi... đòi tiền bản quyền cho các nhạc sĩ bạn bè. Anh đang sống với điều anh tâm niệm: "Hãy sống bao dung với cuộc đời".
(Theo Ðiện ảnh Kịch trường)

Tên khai sinh của ông là Lê Văn Ngọ, còn bút danh là Y- Na, sinh ngày 24/7/1930. Quê ở Hà Nội. Năm 1946, ông tham gia Ðội Thiếu niên cứu quốc Mai Hắc Ðế, là liên lạc viên tự vệ khu Ðông Kinh Nghĩa Thục (Liên khu I) Hà Nội, rồi làm phụ trách Thiếu sinh quân Trung đoàn 165, Sư đoàn 312, tham gia Ðội Tuyên truyền võ trang Lao Hà, làm báo và công tác địch vận của trung đoàn, sư đoàn, sau đó phụ trách nghệ thuật Văn công Sư đoàn 312. Hòa bình lập lại, ông về chỉ huy dàn nhạc Ðoàn Ca Nhạc Ðài Tiếng nói VN kiêm chỉ đạo nghệ thuật, tham gia giảng dạy môn Sáng tác và Phối khí tại Nhạc viện Hà Nội (cho đến năm 1989). Từ năm 1963 đến năm 1989, ông là Ủy viên Ban chấp hành Hội nhạc sĩ VN, là Trưởng ban Sáng tác thanh nhạc và công tác tại Hội cho đến năm 1996. Sau hòa bình lập lại, ông được cử đi học tại Nhạc viện Bắc Kinh (Trung Quốc). Tốt nghiệp, ông về công tác tại Ðài tiếng nói VN, Nhạc trưởng Ðoàn ca nhạc kiêm Chỉ đạo nghệ thuật, đồng thời đi thực tế, nắm bắt nhanh các loại đề tài trong cuộc sống lao động và chiến đấu nên đã sáng tác hàng loạt ca khúc, hợp xướng lớn, nhỏ, được công chúng hâm mộ. Các tác phẩm tiêu biểu: Hò kéo pháo (1954) Những cánh buồm (Thơ: Hoàng Trung Thông) Nhớ (Thơ: Nguyễn Ðình Thi) Hà Nội- Huế- Sài Gòn Quảng Bình quê ta ơi Nổi trống lên rừng núi ơi Không cho chúng nó thoát Chào anh Giải phóng quân- chào mùa xuân đại thắng Hai chị em Người chiến sĩ ấy

Cách đây 3 năm, trong buổi giao lưu với nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý tại Nhà hát Bến Thành (TP Hồ Chí Minh), nhiều khán giả đã được nghe hát bài Ru người trăm năm-ca khúc mới nhất của ông phổ từ thơ Trần Mạnh Hảo: "Ngủ đi người của anh ơi. Xin nhờ làn gió về nơi em nằm. Anh ngồi thức với xa xăm. Ðến em phải vượt hàng trăm tinh cầu... Cách xa như đất với trời. Ðêm đêm anh lặng ru người trăm năm". Lời thơ cứ bồng bềnh, hòa quyện với phần nhạc khai thác từ chất liệu hát ả đào. Từ Dư âm (1950) đến Ru người trăm năm (1999) là... nửa thế kỷ-nhạc Nguyễn Văn Tý vẫn đầy sức truyền cảm làm xốn xang lòng người. Mà đâu chỉ vậy, khi viết ca khúc về một vùng đất nào đó thì tác giả đưa vào đó cả âm sắc lẫn ca từ cùng với tình cảm thể hiện mà nhiều người cho rằng: "Nếu không phải là người địa phương chính gốc thì không thể nào viết được như thể". Nếu như những ca khúc Mẹ yêu con (1956), Tiễn anh lên đường (1964), Bài ca năm tấn (1967), Cô nuôi dạy trẻ (1980)... man mác giọng dân ca đồng bằng Bắc Bộ, thì những Người đi xây hồ Kẻ Gỗ (1976), Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh (1974) lại mang đậm phong vị dân ca khu 5 (Nghệ Tĩnh) nhưng "thâm hậu" nhất vẫn là ca khúc Dáng đứng Bến Tre (1981) mà dân Nam Bộ chính gốc cũng phải thừa nhận là... siêu... * Nói đến nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý là người ta nghĩ ngay đến Dư âm. Có phải đây là tác phẩm đầu tay của ông và hoàn cảnh ra đời của Dư âm như thế nào ? Thật ra Dư âm không phải là tác phẩm đầu tay của tôi nhưng là tác phẩm tạo nên tên tuổi Nguyễn Văn Tý. Khoảng năm 1949-1950, tôi là Trưởng đoàn Văn công của Sư đoàn 304. Tôi có quen hai chị em con nhà gia thế ở vùng biển Quỳnh Lưu (Nghệ An), cô chị khoảng 20 tuổi cô em 16, còn tôi lúc đó 26 tuổi. Ai cũng nghĩ tôi với cô chị phải đẹp đôi. Một hôm, tôi đang say sưa nói chuyện với cô chị thì cô em lén đến sau lưng chị, tì cằm vào thành ghế chị ngồi, nghiêng đầu đau đáu nhìn tôi bằng đôi mắt đen láy. Một đôi mắt hoàn toàn biết nói. Tôi đọc thấy trong đôi mắt đó đã gởi gắm cho tôi tất cả những gì say đắm, sâu kín nhất... Thấy tôi bỗng nhiên đờ đẫn, cô chị quay lại và... đứng dậy bỏ đi thẳng, cô em sợ quá cũng lỉnh luôn. Sau đó tôi bị gia đình này "cấm vận" - không cho liên lạc với cô em. Nhưng... nhớ quá, tôi tới liều. Gia đình không cho tôi vào mà cử người ra "tiếp" tôi ở một góc sân. Tôi ngồi uống nước ngắm trăng mãi mới thấy nàng tay xách cây đàn ghi-ta ra ngồi bên thềm hoa, xoay lưng về phía tôi. Tóc nàng bay bay trong gió dưới ánh trăng thật đẹp. Rồi nàng cất tiếng hát nhưng vì ngồi xa nên tôi không nghe rõ nàng hát những gì... Trở về đơn vị, tôi viết: "Ðêm qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu muôn tiếng tơ... Anh muốn thành mây nương nhờ làn gió, đưa anh tới cõi mơ hồ nào đây muôn kiếp bên đàn" chỉ trong một đêm. * Ông bây giờ trông rất... đẹp lão, hẳn ngày xưa ông "lọt mắt xanh" của nhiều người đẹp? Quả có thế ! (cười). Anh biết không, có thời các đồng nghiệp đã phong cho tôi là "nhạc sĩ chuyên trị về phụ nữ", ám chỉ tôi đã sáng tác thành công nhiều về đề tài phụ nữ ấy mà ! Tuy nhiên cái sự "đa tình" nhiều khi lại phải... khổ vì tình. Ở bài hát Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh có những câu: "Ai hôm nay ra khơi buông lưới mà nhìn chi mãi con tàu vào bờ. Nhìn bến cảng lại nhớ ngày xưa, thương con đò cắm con sào đứng đợi... ". Con đò là một người con gái đã chờ đợi tôi suốt 20 năm mà tôi đi mãi không về, để bây giờ chỉ được mỗi một chữ "thương", thật xót xa tội nghiệp. * Sức khỏe và công việc sáng tác của ông hiện nay ra sao ? Năm nay tôi đã 79 tuổi. Ðã 2 lần bị liệt, 2 lần bị tắc nghẽn mạch máu não, sự sống mong manh lắm nhưng tôi vẫn cố gắng viết khi còn có thể. Từ năm 1988 đến nay, tôi viết được hơn 20 bài, đủ để dựng một chương trình, tôi cũng đã gửi một tập nhạc cho Ðài Tiếng nói Việt Nam mấy năm nay nhưng chưa thấy dựng gì cả. Nhiều hãng băng đĩa tìm đến tôi chỉ để... xin bài cũ. Tôi không trách các nhà sản xuất băng đĩa vì họ có lý do của họ (sản xuất những gì đã quen với công chúng). Nhưng chẳng lẽ trong suốt 20 năm qua, tôi ngồi không à?
Ông sinh ngày 13 tháng 5 năm 1957, quê ở Quảng Ngãi, hiện ở tại thành phố Hồ Chí Minh, công tác tại phòng Văn học - Nghệ thuật Nhà văn hóa thanh niên TP HCM, đã tốt nghiệp đại học Sáng tác nhạc viện TP HCM. Nhạc sĩ Phạm Đăng Khương vốn là sinh viên khoa Toán của trường đại học Sư phạm TP HCM. Do có năng khiếu và ham thích âm nhạc anh đã tham gia vào CLB Sáng tác trẻ của Thành đoàn tại Nhà văn hóa thanh niên TP HCM từ năm 1977 đến nay. Đã hoạt động phong trào văn nghệ quần chúng mọi mặt: sáng tác, dàn dựng, tham gia biên tập, thực hiện và tổ chức các đêm nhạc của nhiều nhạc sĩ. Nhiều bài hát của ông được giới trẻ rất yêu thích: Như cơn gió vô tình, Khung trời mơ ước, Con đường đến trường, Gặp mùa xuân qua đông. Những tuyển tập đã xuất bản: album, đĩa nhạc CD: Khung trời mơ ước, Như cơn gió vô tình. CÁC TÁC PHẨM TIÊU BIỂU: Khung trời mơ ước, Con đường đến trường.
Tên khai sinh của ông là Nguyễn Thập Nhất, sinh ngày 13.6.1959, quê ở Hà Nội. Hiện cư trú tại quận 3, TP HCM. Là biên tập viên ca nhạc phòng văn nghệ Đài truyền hình TP HCM. Đã từng công tác tại phòng văn nghệ Bà Rịa - Vũng Tàu (1980 - 1984), học đại học sáng tác tại trường Trung học Sư phạm mầm non TP HCM. Những tác phẩm đã được in ấn, phát trên sóng phát thanh và truyền hình bao gồm nhiều ca khúc thiếu nhi của anh cũng đã được đánh giá cao. Những ca khúc tiêu biểu của ông: Bé và ông mặt trời, Gọi trăng là gì, Bố là tất cả, Hãy giành Trái đất cho chúng em, Tuổi mười bảy, Một thời kỷ niệm, Nhớ đàn cò trắng, Lời ru của mùa xuân, Đừng là giấc mơ, Tình yêu màu xanh... CÁC TÁC PHẨM TIÊU BIỂU: Bé và ông mặt trời, Bố là tất cả

Tên khai sinh của ông là Phạm Văn Thành, sinh ngày 23 tháng 5 năm 1942 tại Pnôm Pênh, Campuchia. Quê ở Kim Ðộng, Hưng Yên. Năm 1960, Phạm Minh Tuấn tham gia kháng chiến trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Sau những ca khúc đầu tay từ năm 1961, bài hát Qua sông của ông viết năm 1963 đã được công chúng đón nhận với nhiều cảm tình. Ông đã theo học lớp bồi dưỡng âm nhạc tại Trường Âm nhạc Việt Namvà sau này đã tốt nghiệp Ðại học Sáng tác Nhạc viện Tp.HCM (1976-1981). Ngoài sáng tác ca khúc và khí nhạc, ông còn viết nhạc phim, kịch nói, cải lương. Ông đã nhận được nhiều giải thưởng: Giải thưởng Văn học- Nghệ thuật Nguyễn Ðình Chiểu, 1960-1965, Giải âm nhạc trong phim Bài ca không quên, Giải âm nhạc trong vở kịch Ngôi sao biển, Giải thưởng Hội nhạc sĩ Việt Nam các năm 1993, 1995, 1996. Các tác phẩm chính về ca khúc: Qua sông, Ðường tàu mùa xuân, Thành phố- Tình yêu và nổi nhớ (thơ Nguyễn Nhật ánh), Dấu chân phía trước, Rừng gọi, Mùa xuân từ những giếng dầu, Bài ca không quên, Ðất nước (thơ Tạ Hữu Yên), Khúc ca đảo Yến, Khát vọng; về khí nhạc: Prélude cho piano, Giao hưởng thơ... Ngoài ra, ông còn làm công tác giảng dạy âm nhạc tại Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh. Ðã xuất bản: Qua sông (Nhà xuất bản Giải phóng), Thành phố- tình yêu và nổi nhớ (Nhà xuất bản Văn nghệ Tp.HCM), Biển gọi (Nhà xuất bản Văn nghệ Tp.HCM), Bài ca không quên (DIHAVINA), Tuyển chọn ca khúc Phạm Minh Tuấn (DIHAVINA), Album Bài ca không quên (DIHAVINA và Hội nhạc sĩ Việt Nam). Các tác phẩm tiêu biểu: Bài ca không quên, Dấu chân phía trước, Ðất nước, Thành phố- Tình yêu và nổi nhớ.

Ngày ấy, sau thống nhất, từ miền Nam ra Hà Nội, tôi hoà ngay vào đám văn nghệ lạ quen cùng lứa. Phan Lạc Hoa nói với tôi có thằng bạn cùng họ làm nhạc lạ ra phết. Và chúng tôi tìm đến Phan Long để nghe anh nghêu ngao: “Đất nước mình - khi mà không còn nghe tiếng súng - anh sẽ hát em nghe câu hát thuở ban đầu...”. Giai điệu đẹp, đã sướng. Nhưng khi đến khi Phan Long cất lên: “Nơi đây có túp lều cỏ xanh - Nằm soi bóng nước long lanh mặt gương - Sơn ca hót trên cây bạch dương - Hồ Ra-dơ-líp in gương trời xa...” . Chà! chà! hoá ra đây chính là anh chàng “Ra-dơ-líp” mà tôi hằng thích thú song chưa biết mặt. Cuộc kỳ ngộ đã cuốn chúng tôi qua những năm tháng vất vả nhất của thời bao cấp. Phan Long đồng niên song "hắn" vẫn tự hào là sinh trước tôi nửa tháng, đi lính trước tôi mấy năm sau khi học Trường Âm nhạc VN. Ở lính, anh chàng Phan Thăng Long (tên khai sinh) thuộc Đoàn Văn công Phòng không và bắt đầu tập viết ca khúc. Bài hát thời lính đã từng in trên tạp chí “Văn nghệ Quân đội” song chẳng ai để ý. Chuyển ngành, Phan Long về Đài Phát thanh Giải phóng rồi sau là biên tập chương trình văn nghệ thiếu nhi Đài Tiếng nói VN. Chính sự đun đẩy này của số phận đã khiến Phan Long nhận ra mình ở lĩnh vực viết ca khúc cho trẻ thơ. “Từ Ra- dơ- líp đến Pác Bó” của Phan Long là một trình làng đáng kể. Chẳng những tự tìm ra mình, Phan Long còn phát hiện ra phẩm chất viết cho thiếu nhi ở nhiều bạn bè như Nghiêm Bá Hồng, Nguyễn Trọng Tạo, Trương Xuân Mẫn, Bành Mẫn... Nối gót những đàn anh Hoàng Hà, Mộng Lân, Phan Long đã thật “tới” khi viết ra “Cánh chim tuổi thơ”: "Hai cánh tay kheo khéo - cùng đôi bàn chân xinh...”. Có cái gì đó thật tươi sáng, lành lặn khi Phan Long đưa giọng trẻ lắng vào: “Hương lúa đưa ngọt lành - Táo chín thơm đầu cành...”. Phan Long cứ thế mơ mộng giữa những giai điệu ngây ngơ của mình. Nhưng nghèo đói vẫn dày vò cái gia đình bé nhỏ của vợ chồng anh cùng cái Châu, thằng Gà (tên gọi ở nhà của con trai Phan Long). Cả nhà đã bồng bế nhau vào Vũng Tàu kiếm sống. Ở đó, cuộc sống vẫn lay lắt và Phan Long đã chìm tới cơn bạo bệnh ngỡ không cách gì qua nổi. Song có lẽ tình yêu trẻ thơ vô bờ bến đã khiến anh phục sinh. Giờ đây, khi anh đã đàng hoàng sống ở Sài Gòn với công việc thường trú của Đài Tiếng nói VN, đã thêm nổi tiếng với bài “Mẹ” (thơ Đoàn Ngọc Thu), anh vẫn là nhạc sĩ của trẻ thơ. Điều đó càng được xác tín khi “Cánh chim tuổi thơ” được bầu là một trong 50 bài hát viết cho thiếu nhi xuyên thế kỷ do báo TNTP tổ chức bình chọn.
Yến Dung và ca khúc đầu tay "Ngày xưa ơi"

Cô chị cả của nhóm Tik Tik Tak đã thành công ngay trong tác phẩm đầu tiên ở cuộc tranh tài VTV - Bài hát tôi yêu. "Ngày xưa ơi" do nhóm nhạc này thể hiện được bình chọn là 1 trong 10 ca khúc hay nhất và ca sĩ thể hiện xuất sắc. Dưới đây là tâm sự của Yến Dung. * Bạn đã sáng tác "Ngày xưa ơi" trong hoàn cảnh nào? - Tôi sinh ra và lớn lên ở Hà Nội nhưng lại có nhiều dịp về làng quê làm băng video và biểu diễn. Có một buổi chiều, tôi về Thái Bình, đến nơi thì vừa hoàng hôn, bắt gặp khung cảnh bến đò rất nên thơ, ráng chiều đỏ rực chiếu xuống khúc sông, lung linh, huyền ảo.... và đêm đó, tôi viết ca khúc này. Lúc viết xong, tôi nhờ nhạc sĩ Quốc Bảo chỉnh sửa và đặt tên. * Vậy còn video clip của các bạn được xây dựng như thế nào? - Lần đầu tiên chúng tôi được làm clip kỹ lưỡng, kể cả khâu phục trang, có hẳn người chọn quần áo cho nhóm. Cảnh được chọn cũng rất kỹ, quay mất hai ngày, nhất là cảnh các em bé thả cá vàng vào bể... Có khi cả một buổi sáng chỉ quay một mình Thuỳ Vân hát solo. * Có ý kiến cho rằng hình ảnh con cá vàng là sự bắt chước clip "Mama" của nhóm Spice Girls. Bạn nghĩ sao? - Tôi nghĩ có thể là sự trùng hợp nào đó, chứ đạo diễn Phạm Việt Thanh không bí ý tưởng đến mức phải bắt chước như vậy. Nếu bảo Hồng Nhung đi trên sa mạc là giống Madonna hay cảnh đi xe mui trần giống kiểu nước ngoài thì ai chẳng giống ai. * Kỷ niệm của Dung về video clip "Ngày xưa ơi"? - Tôi nhớ cảnh chạy trên cánh đồng, 4 em nhỏ phải chạy hàng chục lần rất mệt, sau đó tôi nghe mọi người nói các em đều bị ốm. Còn cảnh đứng dưới cây sung giữa cánh đồng, lên hình thì đẹp nhưng có ai biết rằng cái cây đó đầy sâu róm khiến cả nhóm sợ chết khiếp.
Trần Long Ẩn còn có bút danh là Ðoàn Công Nhân, sinh ngày 29/9/1943, quê ở Bình Ðịnh. Tốt nghiệp Đại học Văn khoa Sài Gòn, ông tham gia phong trào "Hát cho đồng bào tôi nghe" và nổi lên với bài "Người mẹ bàn cờ" và một số ca khúc khác. Sau đó, ông ra Bắc và tu nghiệp sáng tác tại Nhạc viện Hà Nội. Ca khúc của Trần Long Ẩn vừa da diết tình cảm vửa phảng phất tính triết học. Ông đã tự giới thiệu rất thành công những ca khúc của riêng ông trên sân khấu cho sinh viên và cho các thính giả trẻ. Một số tác phẩm tiêu biểu: Trên mảnh đất tình người, Ði qua vùng cỏ non, Một đời người một rừng cây, Ðàn sáo Hậu Giang, Ðêm thành phố đầy sao, Xin làm người hát rong, Tiếng hát từ ánh lửa mặt trời... Bài ca "Cây hai ngàn lá" (phỏng thơ Pờ Sào Mìn) được giải thưởng Hội nhạc sĩ Việt Nam năm 1994. Ðã xuất bản một số tập ca khúc "Vẫn hát ru em", "Một đời người một rừng cây"...
Ðức Trí - Sự hội tụ của ba dòng nhạc

Trong làng nhạc thành phố, Ðức Trí đã trở nên quen thuộc đối với ca sĩ, nhạc sĩ, các ban nhạc và các nhà sản xuất băng đĩa nhạc. Sự thành công của một ca khúc hay một album ca nhạc phần nào nhờ vào công việc mà anh đang theo với cả tâm huyết và đam mê: Hòa Âm - Phối Khí. Ðức Trí tên thật là Trương Ðức Trí sinh năm 1973 tại Sài Gòn, là mẫu người ít nói, đam mê với nghề. Anh trưởng thành trong một gia đình mang truyền thống nghệ thuật từ quê nội An Giang và quê ngoại Bạc Liêu. Lúc 10 tuổi, Ðức Trí đã làm quen với các nhạc cụ dân tộc như đàn bầu, đàn kìm, trống, mõ... do thầy Phan Chí Thanh hướng dẫn. Từ đó, năng khiếu âm nhạc dân gian từ từ hình thành và cũng là động lực giúp anh khởi đầu sự nghiệp của mình từ cái nôi thứ nhất: dòng nhạc dân tộc. Với sự động viên của gia đình và bạn bè, Ðức Trí quyết định quyết định thi vào Nhạc Viện Thành Phố khi tuổi đời vừa tròn 17. Sau vòng thi căng thẳng, anh được trúng tuyển và bắt đầu những năm đèn sách ở khoa Lý luận sáng tác. Tuy nhiên anh rất thích đàn Organ và tình cờ trở thành thành viên ban nhạc với vị trí nhạc công Keyboard. Ðược học tập tại Nhạc Viện Thành phố, anh bắt đầu làm quen với nhạc giao hưởng. Tuy hơi nghịch với cái gốc của mình nhưng anh không hề nản chí. Ðức Trí tập trung vào việc học với sự hướng dẫn của thầy Phạm Lý về lý luận và thầy Nguyễn Văn Nam về sáng tác. Những năm tháng "mài ghế" nhà trường cũng trôi qua và anh tốt nghiệp Nhạc Viện Khoa Lý luận sáng tác với luận văn "Nghiên cứu về tính ngẫu hứng trong âm nhạc cải lương Nam Bộ" (1995). Có thể nói Nhạc viện là nơi anh tự khẳng định mình từ cái nôi thứ hai: dòng nhạc cổ điển, như giáo sư Trần Văn Khê đã nhận xét: "Ðức Trí là một trong số ít nhạc sĩ trẻ có duyên với âm nhạc dân tộc mà triển vọng sẽ còn tiến xa trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa dân gian". Ngoài ra, anh còn dành một phần thời gian cho nghiên cứu nhạc dân tộc và từng bước hoàn chỉnh các tác phẩm khí nhạc của mình. Sau khi tốt nghiệp, Ðức Trí trở thành người biên tập chương trình và kiêm luôn công việc hòa âm- phối khí cho các trung tâm băng nhạc, nhất là Bến Thành Audio. Anh thật sự bước vào con đường chuyên nghiệp từ cái nôi thứ ba: dòng nhạc hiện đại. * Ca sĩ, nhạc sĩ nào thực sự gây ấn tượng khi Ðức Trí thực hiện các album cho các hãng băng đĩa nhạc ? Nói chung anh chị em nghệ sĩ đều dễ thương, hòa đồng, hợp tác tốt trong công việc mà mình đảm trách. Về ca sĩ có Mỹ Linh, Hồng Nhung rất yêu nghề, có trách nhiệm khi thể hiện tác phẩm, biết cách sắp xếp công việc thật khoa học. Về nhạc sĩ có Bảo Chấn và Dương Thụ mà ca khúc của họ đã tạo cho em ấn tượng lạ trong lúc hòa âm cũng như lúc thể hiện trên dàn nhạc. * Ðức Trí đã thực hiện được bao nhiêu chương trình? Hòa âm-phối khí với các đồng nghiệp thì khá nhiều chương trình nhưng làm một mình thì có khoảng 10 chương trình như CD Tiếng hát Mỹ Linh - CD Yêu, yêu, yêu (Tam Ca 3 Con Mèo) - CD Lãng du ca (Tam Ca 3A) - CD 10 tình khúc dâng mẹ (Thùy Trang) ... * Ðức Trí thường làm gì trong thời gian rảnh? Mình thích đi du lịch xa như nghỉ mát ở các vùng biển. Nếu thời gian hạn hẹp thì tham gia các môn thể thao như bóng bàn, quần vợt hoặc nghe nhạc như nhạc Jazz chẳng hạn. * Dự định của Ðức Trí trong tương lai? Dự định học tiếp lên cao học để nâng cao trình độ và... (một thoáng suy nghĩ) trở thành người sản xuất, vì gần đây mình có thực hiện một album nhạc hòa tấu kèn SAXO. Ðó là CD: Tôi ru em ngủ đã phát hành. Hy vọng sẽ thành công. Ðức Trí là sự hội tụ của 3 dòng nhạc: Dân tộc - Cổ Ðiển - Hiện Ðại. Tuy nhiên, anh vẫn giữ được bản sắc đặc trưng của mình, đó là cái gốc quê cha đất tổ, nơi khai sinh Dạ Cổ Hoài Lang - tiền thân của các bài vọng cổ. Hiện tại Ðức Trí đang hòa mình vào công việc sáng tạo nghệ thuật với trái tim nhiệt tình để tìm ra cái mới cái đẹp trong thế giới âm nhạc. Anh nói: "Các nốt Ðô, Re, Mi, Fa, Son, La, Si và các chữ Hò, Xự, Xang, Xê, Cống có thể hòa nhập thành một thể thống nhất mà vẫn không mất đi nét riêng của từng thành tố. Sự kết hợp chúng lại với nhau sẽ tạo ra cấu trúc âm nhạc mới mẻ đầy sức thuyết phục".
Trương Quang Tuấn (Tạp chí Thế Hệ trẻ)
Phương Uyên - Ca sĩ, nhạc sĩ

Phương Uyên (sinh nhật: 14-11) được biết đến trước tiên với tư cách "mèo chị" trong ban nhạc "Ba con mèo". Phương Uyên khởi nghiệp hát solo từ ngày 18/11 (ban nhạc ngừng hoạt động vì Cẩm Tú đã định cư tại Mỹ, Ngọc Diệp bận chăm lo gia đình). Sau một thời gian tạm nghỉ, Uyên quyết định tái ngộ sân khấu vì nhớ nghề. Trong lĩnh vực sáng tác nhạc, Uyên có rất nhiều ca khúc ăn khách như Cuộc đời rất ngắn, Nhớ em tôi (kỷ niệm về Ba Con mèo), Cô đơn mình em, Ngày hôm qua còn mãi, Ta mãi bên nhau, Mẹ yêu và Sài Gòn cô tiên năm 2000... Từ một người sáng tác tự biên cho nhóm (Ba Con Mèo), đến nay "mèo chị" Phương Uyên đã có trong tay gần 60 ca khúc. Mấy năm gần đây những ca khúc của Phương Uyên nổi lên như một hiện tượng, không còn là sở hữu riêng của nhóm mà đã được rất nhiều ca sĩ chọn hát và đang ngày một thịnh hành, được giới trẻ hết sức yêu thích. Thật ra Phương Uyên đã bắt đầu sáng tác từ khi nhóm mới được thành lập (năm 1992) trong một dịp hết sức tình cờ. Đó là khi nhóm Ba Con Mèo tham dự Festival pop-rock được tổ chức lần đầu tiên tại NVH Thanh niên (1992). Theo qui định của ban tổ chức, nếu nhóm nhạc nào hát những ca khúc tự biên sẽ được ưu tiên về điểm. Cho đến hết vòng 1, nhóm Ba Con Mèo vẫn chỉ hát những ca khúc có sẵn vì chưa có ca khúc nào tự biên. Sau khi biết được lọt tiếp vào vòng trong, lúc này nhóm mới bắt đầu nghĩ đến chuyện tự biên bài hát cho chính mình. Thế là "mèo chị" trưởng nhóm mới làm liều thử viết một bài cho nhóm xem sao, không ngờ ca khúc đầu tay Đến với tình yêu của Uyên đã được khán giả cổ vũ nồng nhiệt và góp phần không nhỏ đưa Ba Con Mèo đoạt giải cao nhất. Kể từ năm 1998, nhất là khi bài hát Mẹ yêu ra đời, những sáng tác của Phương Uyên mới bắt đầu bùng phát và người ta để mắt đến Uyên nhiều hơn trong vai trò sáng tác. Ngay cả những bài hát khá quen thuộc như Sài Gòn cô tiên năm 2000 dù được viết từ năm 1994 nhưng mãi đến những năm gần 2000 mới được phố biến rộng rãi và đến đâu cũng nghe hát rộn rã. Ca khúc của Phương Uyên thường có tiết tấu nhanh, sôi nổi, rất hợp với giới trẻ. Nội dung hay đề cập đến những tình cảm thiêng liêng (Mẹ yêu, Sài Gòn mãi trong tim ta...), tình yêu mộc mạc (Tôi yêu, Đã quên thật sao...) hoặc những vấn đề xã hội (Sài Gòn cô tiên năm 2000, Anh tôi...) nên rất dễ đi vào lòng người. Phương Uyên càng viết càng hăng và chỉ từ năm 1998 đến nay Uyên đã cho ra đời mấy chục ca khúc không chỉ cho nhóm mà còn cho nhiều ca sĩ trẻ khác như Lam Trường, Đan Trường, Thanh Thảo, Khánh Du... (TT)

Anh Quân là con "nhà nòi" nghệ thuật, Bố là nhạc sĩ Trương Ngọc Ninh và mẹ là nữ nghệ sĩ Thu Hiền, thuyết minh phim của Ðài truyền hình Việt Nam. Anh Quân, chàng nhạc sĩ của một loạt ca khúc sáng tác theo phong cách mới như: Hương ngọc lan, Tóc ngắn… thành viên của ban nhạc Anh&Em, một hậu thuẫn đắc lực cho sự nghiệp của vợ – ca sĩ Mỹ Linh. Nói về chồng, Mỹ Linh nhận xét: "Anh Quân hơi khó tính, lại hay càu nhàu, chẳng mấy khi nói ra được những câu tình cảm nhưng tôi hiểu được nội tâm của anh. Sống được với anh Quân cũng chẳng phải là điều đơn giản, tính anh không cởi mở, thậm chí còn hơi lạnh, người nào không hiểu thì không thể gần gũi được, nhưng khi đã biết tính rồi thì lại là chuyện khác. Nhưng điều quan trọng hơn cả là anh rất yêu thương tôi, có cái gì tốt cũng nghĩ đến vợ đầu tiên..." Phòng thu riêng của anh tại nhà là một địa chỉ studio uy tín ở Hà Nội, đã thực hiện album cho nhiều nghệ sĩ như: Nhạc sĩ Ngọc Đại và ca sĩ Trần Thu Hà, Minh Quân, Thu Phương, Tấn Minh, Anh Tú, nhạc sĩ Vũ Quang Trung, cây xaso Hồng Kiên và một người không thể thiếu... Mỹ Linh.

Gió đưa trên cành, hạt mưa màu xanh, cười trong mắt ai, rộn ràng mùa xuân tới..." Những câu hát đó đã trở nên rất thân thương với nhiều người mỗi độ xuân về. Nhạc sĩ, người đã thổi những cung quãng âm thanh rất truyền cảm vào giai điệu trong ca khúc Hạt mưa mùa xuân này cũng rất quen thuộc với chúng ta - nhạc sĩ Trương Ngọc Ninh. Trở thành người nghệ sĩ, chiến sĩ từ khi mới là chàng trai trẻ tuổi 15, Trương Ngọc Ninh với cây đàn violon trên vai đã từng đi biểu diễn văn nghệ phục vụ khắp các chiến trường trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Biết bao vất vả, khó khăn, biết bao lần không cầm được nước mắt khi tận mắt chứng kiến những người đồng nghiệp hy sinh ngay sau buổi diễn... Chính những năm bôn ba ấy là nguồn tư liệu quý giá, là kho cảm xúc bất tận cho những sáng tác sau này của ông. Và cũng ngay từ thời kỳ đó, Trương Ngọc Ninh cũng đã bắt đầu sáng tác nhạc cho các điệu múa, các vở nhạc vũ kịch. Nhạc sĩ Trương Ngọc Ninh hiện công tác tại Sở Văn hoá - Thông tin Hà Nội. Gia đình ông là một gia đình nghệ sĩ. Vợ là nữ nghệ sĩ Thu Hiền, thuyết minh phim của Ðài truyền hình Việt Nam. Ông là bố của nhạc sĩ Anh Quân (chồng ca sĩ Mỹ Linh) và ca sĩ, người dẫn chương trình Văn nghệ chủ Nhật: Hương Ly. Hoà bình lập lại, mong muốn được học, được dồn hết tâm sức cho việc sáng tác hơn bao giờ hết lại trở nên sôi sục trong ông và ông thi vào khoa Sáng tác Nhạc viện Hà Nội. 6 năm trời học tập trong Nhạc viện là quãng thời gian ông được nghiên cứu, được trang bị nhiều kỹ thuật sáng tác và những cảm xúc vốn có trong ông tuôn trào ra thành những tác phẩm nhạc khí thính phòng có giá trị (biến tấu Sông Ðà, giao hưởng về rừng miền Tây, về công cuộc dựng xây Trường Sơn, giao hưởng Thạch Sanh...), những ca khúc nhạc nhẹ được nhiều người yêu thích (Hạt mưa mùa xuân, Xuống chợ, Suối nguồn, Lời ru chia đôi...), những ca khúc viết dành riêng cho người lính, và cả về những vùng đất ông đã đi qua, đặc biệt là với ca khúc Trường ca Ðam San - nhiều người nói rằng ông đã mang được cái hồn vùng đất Tây Nguyên vào đó. Nhạc sĩ Trương Ngọc Ninh quan niệm rằng, các ca khúc trong mỗi giai đoạn lịch sử đều có ngôn ngữ, có dấu ấn riêng của nó; người nhạc sĩ phải có những bút pháp mới lạ, phù hợp với thời đại để chinh phục khán giả. Chính bởi quan niệm đó mà kể từ năm 90, khi nhạc sĩ chuyển ngành về công tác tại Sở Văn hoá - Thông tin Hà Nội, ông đã có những tìm tòi mới trong sáng tác của mình. Khán giả đã quen thuộc với một Trương Ngọc Ninh đầy uyển chuyển trong việc mang những chất liệu dân gian vào những ca khúc Hạt mưa mùa xuân, Xuống chợ, Vòng tay Ðam San... giờ lại thấy ngỡ ngàng khi nghe những giai điệu hiện đại nhưng cũng không kém trữ tình, quyến rũ trong Tháng Mười Hà Nội, Nửa vầng trăng, Biển khát... "Biển lỡ lầm để cho con sóng chứa đầy bão giông, em lỗi lầm để con tim anh mang bao đớn đau... Em khát anh như nắng hạn chờ mưa... Giây phút mong manh em bội ước tình anh... Biển khát, biển khát bờ, em vẫn yêu anh, con sóng vẫn đợi chờ..." Lời ca lúc dịu dàng, lúc da diết đó đã đi vào lòng khán giả và ca khúc Biển khát do ca sĩ Mỹ Linh thể hiện đã trở thành một trong những ca khúc được yêu thích. Không chỉ vậy, Biển khát còn là một ca khúc được các ca sĩ thể hiện rất nhiều trong các cuộc thi, họ nói "đó là một ca khúc để hát được phải có một chất giọng tốt và kỹ thuật thanh nhạc vững vàng...". Ðiều đó đã chứng tỏ một điều rằng dù ở thời điểm nào, nhạc sĩ Trương Ngọc Ninh luôn tìm được một hướng đi riêng cho âm nhạc của mình.

Anh là nhạc sĩ thuộc môtip đa năng... Từ nhạc phong trào, tình ca, tình mẹ, tình bạn... và luôn cả tình yêu trẻ thơ côi cút cũng hiện diện trong ca khúc của anh. Năm 1980, sau khi tốt nghiệp Trung cấp thanh nhạc và trở thành diễn viên của đoàn Nghệ thuật Bông Sen, Thế Hiển đã có dịp đi biểu diễn phục vụ bộ đội, TNXP... khắp mọi miền đất nước. Với những lần đi như thế, Thế Hiển lại thấm thía thêm những nhọc nhằn, gian khổ của người lính, của TNXP... và anh bắt đầu cầm viết tuôn trào những giai điệu Hát về anh, Nhánh lan rừng, Chuyện đời xưa - chuyện đời nay, Hát trên nông trường xanh... tất cả đều được các bạn trẻ đón nhận nồng nhiệt. Hai mươi năm sau (7.2002), trong chiến dịch mùa hè xanh (CDMHX) anh lại cho đời Hành Khúc thanh niên tình nguyện. Chính ca khúc này đã làm rạng rỡ thêm cuộc đời sáng tác của anh. Ngày 18.8.2002, trên 16.000 thanh niên, sinh viên, học sinh đã rầm rập hát vang hành khúc này trong nhịp đi hùng tráng tại quảng trường Phạm Ngọc Thạch trong lần ra quân CDMHX. Dong dỏng cao, hơi gầy, Thế Hiển tỏ ra rất linh hoạt, mạnh mẽ. Khi khoác màu áo xanh thanh niên tình nguyện anh không còn là Thế Hiển của Tóc em đuôi gà nữa mà là "Về đông bằng phương Nam ta đắp đê ngăn cơn lũ tràn..." (Hành khúc thanh niên tình nguyện). Còn khi ngồi ở một quán bia bình dân nào đó, chỉ một cây guitar còn 4 dây anh cũng gào thét: "Đời cần có thanh niên đầy nhiệt huyết trong tim. Mùa hè xanh, hát vang bài ca lên đường...". Mặc dù đã có một Hành khúc thanh niên tình nguyện trở thành ca khúc chủ lực của CDMHX song Thế Hiển chưa hề có ý định nghỉ ngơi: "Tôi sẽ viết tiếp những giai điệu hùng tráng cho riêng từng công việc, viết tình ca để ca ngợi những cá nhân xuất sắc tiêu biểu... và viết tiếp những giai điệu đẹp về quê hương, đất nước mình. Đầu năm 2004, Thế Hiển có vẻ tất bật với nhiều kế hoạch. Đầu tiên là buổi ra mắt CLB Nhánh lan rừng do anh chủ nhiệm. Với mô hình nhà hàng - ca nhạc, CLB sẽ là nơi giao lưu và biểu diễn nghệ thuật, hội đủ "cầm, kỳ, thi, họa". Nơi đây còn có cả một rừng... phong lan do bạn bè văn nghệ sĩ gửi tặng. CD Minh ca đường phố mang chủ đề Dấu chấm hỏi của anh cũng sắp trình làng. Ngoài ra Thế Hiển cũng dự định sẽ tổ chức một chương trình ca nhạc với tên gọi "Đợi chờ trong cơn mưa" tại Bình Dương.
Tên khai sinh là Tạ Từ Huy, sinh ngày 15 tháng 10 năm 1948, quê ở Điện Bàn, Quảng Nam. Từ Huy vốn học ĐH Văn khoa Sài Gòn, Cao đẳng Mỹ thuật Huế. Trước 1975, ông đã từng có những bài thơ yêu nước in trên các tạp chí Đối diện, Văn.... Sau giải phóng, Từ Huy đi vào sáng tác ca khúc. Ngay từ những tác phẩm đầu tiên mang chất nhạc trẻ như Những lời em hát, Mùa xuân tình yêu... đã được giới thanh niên đón nhận như: Chiều thứ bảy, Lời yêu thương, Một thoáng quê hương (viết chung với Thanh Tùng), Mong đợi ngậm ngùi, Ngày em đến... Là một trong bảy nhạc sĩ thuộc nhóm "Những người bạn", Từ Huy vừa sáng tác vừa tổ chức CLB Nhạc sĩ nhằm giới thiệu các tác phẩm mới của các nhạc sĩ trẻ và các ca sĩ trẻ. Từ Huy đã xuất bản nhiều tuyển tập thơ, ca khúc và album.

Tên khai sinh của ông là Đoàn Hữu Công, sinh ngày 15/8/1935, quê ở Duy Xuyên, Quảng Nam, hiện cư trú tại Hà Nội. Ông tham gia công tác từ năm 1949, là cán bộ văn nghệ của Ðoàn văn công Khu ủy Liên khu V, sau đó theo học lớp Trung cấp sáng tác tại Trường âm nhạc VN. Bước vào kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ông viết ngay những bài hát động viên thanh niên lên đường: Ba lô ta buộc cho chặt, Vành lá nguỵ trang rất xanh... Năm 1965, lên đường trở lại chiến trường sáng tác, lấy bút danh là Thuận Yến, với những ca khúc của thời kỳ này như: Hát mừng quê ta giải phóng, Mỗi bước ta đi, Bài ca tiếp vận, Mỗi dòng thư Bác sáng ngời niềm tin. Ông đã có mặt trên chiến trường Trị Thiên- Huế và khi cuộc đấu tranh chính trị phát triển mạnh, ông đã viết ca khúc Người mẹ miền Nam tay không thắng giặc được nhanh chóng phổ biến rộng rãi ở cả hai miền Nam, Bắc. Trở lại miền Bắc theo học Ðại học Sáng tác nhạc viện Hà Nội, ông đã sáng tác một số tác phẩm khí nhạc, trong đó có bản Sonate Tự Nguyện và Trang giao hưởng 5 chương Khúc nhạc miền Trung và hành khúc Những bàn chân không mỏi. Về Ðoàn văn công Tổng cục xây dựng kinh tế, ông tiếp tục viết ca khúc, có những ca khúc nổi tiếng về đề tài ca ngợi lãnh tụ: Bác Hồ- một tình yêu bao la, Vầng trăng Ba Ðình và những đề tài khác như: LêNin, Người đến đất nước tôi (Giải nhì cuộc thi nhân kỷ niệm 40 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân VN), Hương tràm, Chia tay hoàng hôn (thơ Hoài Vũ), Tình yêu không lời rất được hoan nghênh. Ngoài ra ông còn viết nhạc cho múa (Bông sen đỏ, Anh còn sống mãi), nhạc cho phim (Khoảng trời chiến sĩ, Hát ở chiến hào). Ðã xuất bản tuyển chọn ca khúc Thuận Yến, Album Ði tìm trái tim (Sài Gòn Audio), Chia tay hoàng hôn (DIHAVINA). Ông đã được nhiều giải thưởng: Vầng trăng Ba Ðình (Giải nhất ca khúc của Bộ văn hoá, 1987), Màu hoa đỏ (Giải ca khúc xuất sắc của Bộ quốc phòng, 1994), Chia tay hoàng hôn (Giải bài hát được nhiều người ưa thích năm 1992-1993 của Ðài Tiếng nói VN). Các tác phẩm tiêu biểu: Bác Hồ một tình yêu bao la, Chia tay hoàng hôn, Con gái mẹ đã thành chiến sĩ, Màu hoa đỏ, Khát vọng, Tình yêu không lời. Về cái tên Thuận yến: Nhạc sĩ lấy hai chữ Duy Thuận quê cha với Duy Yên quê mẹ ghép lại thành Thuận Yên, người biên tập tưởng nhầm là Yến nên Đài Tiếng nói VN đọc là Thuận Yến. Ông ở chiến trường làm sao sửa được, thế là... có một nhạc sĩ Thuận Yến đi vào lòng người yêu nhạc.
Xuân và tuổi trẻ - Tưởng niệm nhạc sĩ La Hối

Người nhạc sĩ tài hoa La Hối đã không còn nữa từ hơn năm mươi lăm năm về trước, nhưng tác phẩm Xuân & tuổi trẻ của ông vẫn sống mãi trong lòng mọi người vào mỗi độ Xuân về. Một trong những thú vui ngày Xuân là nghe nhạc Xuân để thưởng thức âm thanh, hình ảnh và màu sắc của mùa Xuân đang trở về trên trần thế, qua tiếng nhạc lời ca của nhiều nhạc sĩ... Thế nhưng, với tôi, giai điệu valse tươi sáng, trẻ trung, đầy sức sống lạc quan của nhạc phẩm Xuân & tuổi trẻ có sức truyền cảm lạ lùng! Chính lúc đó, tôi nghĩ về La Hối bằng tất cả thương tiếc ngậm ngùi... Ngày thắm tươi bên đời xuân mới, Lòng đắm say bao nguồn vui sống. Xuân về với ngàn hoa tươi sáng, Ta muốn hái muôn ngàn đóa hồng. Ngày thắm tươi bên đời xuân mới, Lòng đắm say bao nguồn vui sống. Xuân về với ngàn hoa tươi sáng, Ta muốn luôn luôn cười cùng hoa. ... Ông sinh năm 1920, gốc người Quảng Đông, nhưng gia đình từ nhiều đời đã định cư tại Hội An, Quảng Nam. Từ bé, ông là một cậu học sinh chăm chỉ, ngoan ngoãn, xuất sắc trên các môn học và có khiếu đặc biệt về môn âm nhạc! Năm 14 tuổi ông đã bắt đầu sáng tác và thể hiện năng khiếu âm nhạc qua các giai điệu vui tươi, sôi nổi... Những năm 1936-1938, ông vào Sài Gòn để hoàn chỉnh chương trình học văn hóa và trau dồi thêm nhạc cổ điển Tây phương. Sau đó, ông lại trở về Hội An dạy đàn. Ông là người yêu âm nhạc ngay từ thuở thiếu thời nên lúc nào cũng ôm ấp hoài bão quy tụ những người cùng yêu âm nhạc lại thành một nhóm để cùng nhau nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm... Năm 1939, ông và một số nhạc sĩ thành lập hội yêu âm nhạc (société philharmonique). Ông được tín nhiệm vào chức Hội Trưởng và cũng là người đầu tiên đưa hành khúc cách mạng Việt Nam vào các chương trình hòa tấu. Một số nhạc sĩ trẻ thời bấy giờ đã được ông hướng dẫn trong lãnh vực âm nhạc, như: Dương Minh Ninh (Tác giả Gấm Vàng), Lê Trọng Nguyễn (Tác giả Nắng Chiều), Lan Đài (Tác giả Chiều Tưởng Nhớ). Trong giai đoạn Nhật chiếm Trung Hoa, Việt Nam và Đông Nam Á, phong trào kháng Nhật nổi lên mạnh mẽ trên cả ba miền đất nước Việt Nam, La Hối đã tham gia tổ chức chống phát xít bằng cả bầu nhiệt huyết của tuổi thanh niên. Ông là cấp lãnh đạo nòng cốt chống phát xít Nhật tại Hội An và vùng phụ cận. Những đêm cùng đồng đội thức trắng để in truyền đơn, viết biểu ngữ; những kế hoạch tập kích quân đội Nhật... là những kỷ niệm hào hùng hằn sâu trong ký ức người chiến sĩ chống phát xít. Nếu trong âm nhạc, ông say mê về các giai điệu, thì trong đấu tranh, ông lại say mê về các chiến công! Cũng chính vì thế, Hiến Binh Nhật càng ráo riết truy nã ông, cuối cùng tổ chức của ông bị bại lộ và vào một ngày u ám của tháng 5 năm 1945 ông đã bị bắt cùng với mười đồng chí yêu nước khác! Sau nhiều ngày bị giam cầm và bị tra tấn vô cùng dã man, mười một vị anh hùng đã bị phát xít Nhật xử bắn, vùi lấp chung một huyệt tại chân núi Phước Tường, phía Tây Nam Đà Nẵng (Nay đã được đưa về nghĩa trang chống phát xít Nhật ở Hội An). Ông đã ra đi vĩnh viễn lúc tuổi đời chỉ mới hai mươi lăm! Ông sáng tác rất nhiều, nhưng chỉ để lại khoảng 20 tác phẩm! Một số lớn đã bị hiến binh Nhật tịch thu, một số khác do người tình của ông cất giữ! Những tác phẩm của ông đều xoay quanh đề tài tuổi trẻ và học đường, trong đó Xuân & tuổi trẻ được soạn vào giai đoạn ông bị hiến binh Nhật theo dõi, hoàn cảnh sống phức tạp và vô cùng khó khăn, song cũng là tác phẩm gây niềm hứng khởi tin yêu cuộc đời hơn cả. Năm 1946, văn thi sĩ kiêm đạo diễn kịch Thế Lữ cùng nhóm nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, Văn Chung... trong đoàn Ca Vũ Nhạc Anh Vũ đến Hội An trình diễn, đã rất yêu thích giai điệu của bài Xuân & tuổi trẻ, lúc bấy giờ gọi theo tiếng Pháp là printemps & jeunesse và chưa có lời ca. Tìm hiểu cuộc đời tài hoa của người nhạc sĩ sớm hy sinh vì đại nghĩa dân tộc, Thế Lữ rất xúc động nên đã xin phép gia đình nhạc sĩ được viết lời cho nhạc phẩm giá trị nầy. Sau đó, Nguyễn Xuân Khoát soạn hòa âm, Văn Chung soạn vũ điệu và khi trình diễn đã làm nức lòng người dân phố Hội. Từ thời điểm đó, Xuân & tuổi trẻ là bản nhạc mang tính trẻ trung, vui tươi, lành mạnh... không thể thiếu trong mọi nhà Việt Nam mỗi độ Xuân về! Trong những năm kháng chiến, Xuân & tuổi trẻ theo chân những người yêu nhạc vào các vùng chiến khu, vào tận miền Nam, ra tới Việt Bắc. Nhớ thương La Hối, nhạc sĩ La Xuân sáng tác bài Mộng Doãn Chánh (La Hối còn có tên La Doãn Chánh), sau đó đổi thành Giấc mơ du tử, người Hội An còn gọi là Hội An ngày về. Xuyên suốt hơn nửa thế kỷ, Xuân & tuổi trẻ của nhạc sĩ La Hối vẫn là một ca khúc trẻ trung, yêu đời, reo vui trên mọi miền Đất Nước mỗi độ Xuân về. La Hối từ giã cuộc đời và sự nghiệp một cách đột ngột khi còn quá trẻ, nên những gì liên quan đến ông, chỉ còn lại rất ít! Trong thời gian dạy nhạc, La Hối có yêu một cô giáo dạy dương cầm. Chuyện tình của họ thật đằm thắm và kín đáo nên ít người biết, ngay cả trong gia đình cũng không nhớ rõ tên của cô giáo ấy! Tất cả những sáng tác giá trị chưa được phổ biến, La Hối đều gởi tặng trước cho người mình yêu quý! Sau khi ông hy sinh, gia đình quá đau buồn, quên mất vai trò "quản thủ tài liệu" của cô giáo Dương Cầm! Và bây giờ, người đẹp của La Hối không biết đã lưu lạc phương nào, còn sống hay đã mất!? Hôm nay, nhân dịp Xuân về, nghe giai điệu Xuân & tuổi trẻ tràn đầy sức sống lạc quan... tôi trân trọng ghi lại vài dòng tưởng niệm người nhạc sĩ quá cố, rất tài hoa và chứa chan lòng yêu nước đã vĩnh viễn đi vào lòng dân tộc! Người nhạc sĩ trẻ La Hối đã không còn nữa, nhưng Xuân & tuổi trẻ của ông vẫn còn, vẫn reo vui và vang vọng mãi, không những chỉ riêng trên mọi miền Đất Nước Quê Hương, mà ngay cả trong cộng đồng người Việt hải ngoại mỗi độ Xuân về.
* Tham khảo tài liệu của ông La Gia Quảng, cháu ruột của cố nhạc sĩ La Hối.

Tên khai sinh là Lê Văn Gắt, ông sinh ngày 13 tháng 3 năm 1936, quê ở Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Nguyên Ủy viên Ban thư ký Hội nhạc sĩ VN khóa III. Phó tổng thư ký Hội Âm nhạc TP HCM (1981). Nguyên Phân viện trưởng Phân viện Âm nhạc tại TP HCM. Hiện ở TP HCM. Tháng 6 năm 1962, tốt nghiệp khoa sáng tác của trường Âm nhạc VN (nay là Nhạc viện Hà Nội), ông về nhận công tác ở Đoàn ca múa miền Nam. Năm 1967, công tác tại phòng chỉ đạo Văn công thuộc Vụ Âm nhạc và múa, theo dõi chỉ đạo hoạt động của Đoàn ca múa nhân dân Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên. Năm 1970, Lư Nhất Vũ trở về chiến trường miền Nam, công tác ở Tiểu ban Văn nghệ giải phóng, hoạt động ở chiến trường miền Tây Nam bộ. Sau năm 1975, ông công tác ở cơ quan Văn nghệ Giải phóng, rồi Viện Nghiên cứu Âm nhạc (sau này là Viện Văn hóa Nghệ thuật tại TP HCM) cho đến nay. Những sáng tác thanh nhạc: Chiều trên bản Mèo (1961, hợp xướng), Hàng em mang tới chiến hào (1964), Cô gái Sài Gòn đi tải đạn (Giải A của Hội Nhạc sĩ VN và Ban Thống nhất TƯ), Bên tượng đài Bác Hồ, Hãy yên lòng mẹ ơi, Tiếng cồng vượt thác, Hòn Khoai (nhạc cảnh). Đã xuất bản hai tuyển tập Tiếng đàn quê em (NXB Văn hóa, 1982) và Hãy yên lòng mẹ ơi (NXB Âm nhạc và Hội Nhạc sĩ VN, 1995). Ông có một loạt những công trình nghiên cứu đồ sộ về dân ca các miền Nam bộ đã xuất bản (cùng viết với một số tác giả Lê Giang, Nguyễn Đồng Nai, Thạch An, Nguyễn Văn Hoa, Quách Vũ): Dân ca Bến Tre, Kiên Giang, Cửu Long, Sông Bé, Hậu Giang... Các tác phẩm tiêu biểu: Hãy yên lòng mẹ ơi, Cô gái Sài Gòn đi tải đạn, Bên tượng đài Bác Hồ.
Nhạc sĩ : Nguyễn Nhất Huy

Từng là một nhà thơ được giới sinh viên yêu mến nhưng Nhất Huy lại cho rằng, chỉ có âm nhạc mới thể hiện hết khao khát đang tiềm ẩn trong mình. Sự rẽ ngang của anh được đền đáp xứng đáng bằng nhiều tác phẩm thành công, trong đó có "Thương nhớ người dưng", "Người về cuối phố", đoạt giải Làn Sóng Xanh năm vừa qua. - Anh bắt đầu con đường sáng tác nhạc như thế nào? - Tôi gia nhập nhóm sáng tác của Thành đoàn TP HCM cùng với Trường Huy, Hoài An, Quốc An.... Lúc đầu, tôi chỉ viết nhạc như phương tiện vui chơi, giải trí nên những ca khúc đầu tay tôi giữ cho riêng mình, phải đến khi tham dự Trại Bồi dưỡng sáng tác ca khúc cho các nhạc sĩ sinh viên, tôi mới tự tin giới thiệu nhạc phẩm đến người nghe. Sau đó, tôi chuyển về cộng tác với Trung tâm băng nhạc Kim Lợi cho đến giờ. Sinh ngày: 26-02-1975 tại Cà Mau Hội viên Hội Âm Nhạc Tp HCM. Ca khúc có nhiều cảm xúc nhất: Tình Mẹ, Nghĩ Về Cha, Người Thầy, Người Về Cuối Phố, Đêm Cô Đơn, Vẫn Nợ Cuộc Đời. Các giải thưởng: Nhạc sĩ yêu thích nhất làn sóng xanh 2000; Nhạc sĩ có ca khúc yêu thích nhất LSX 2001- 2002; Giải A Sài Gòn tình ca 2002 của HTV, ca khúc "Bên em chiều Sài Gòn"; Ca khúc "Bến vắng" do ca sĩ Cẩm Ly trình bày đọat giải Mai Vàng báo Người Lao Động 2002. - Anh thường sáng tác vào lúc nào? - Tôi viết nhạc theo trạng thái tình cảm của mình, nhiều khi cảm hứng từ ký ức bất chợt hiện về. Ca khúc Tình mẹ do Mỹ Tâm thể hiện, tôi sáng tác trong lần nhận giải Làn Sóng Xanh, đứng trên sân khấu nhận bó hoa khán giả tặng, tôi bỗng nhớ đến một hình ảnh và lập tức viết ngay sau đó. - Tại sao các ca khúc của anh thường được ca sĩ Cẩm Ly thể hiện đầu tiên? - Rất đơn giản, cô ấy là người hát thành công nhất hầu hết các tác phẩm của tôi. Dường như tất cả tâm sự mà tôi gửi gắm qua ý nhạc đều được Cẩm Ly thấu hiểu, diễn tả đúng tâm trạng.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương

Ông sinh ngày 22 tháng 5 năm 1919 tại Thừa Thiên- Huế. Là một trong những nhạc sĩ thế hệ đầu tiên của nền tân nhạc nước ta. 9 tuổi, ông học đàn nguyệt và tự học ký xướng âm qua sách Pháp. Năm 1936, tốt nghiệp Trung học Quốc học Huế, ông viết Trên sông Hương, cũng là một trong những tác phẩm tân nhạc đầu tiên ở Huế. Năm 1939 đi học ở Hà Nội, viết Đêm đông. Năm 1942 tại Sài Gòn, viết Bướm hoa. Sau đó, là một số tác phẩm giai đoạn kháng chiến chống Pháp: Bình Trị Thiên khói lửa, Bài ca trên núi, và sau giải phóng có ca khúc Thu Hà Nội, mùa thu tuyệt vời. Ông còn nổi tiếng trong lĩnh vực khí nhạc: Lý hoài nam (độc tấu sáo trúc), Buôn làng vào hội, Quê hương. Đặc biệt là những tác phẩm khí nhạc lớn sau khi đi tu nghiệp ở Cộng hoà dân chủ Đức về: Ngày hội non sông (độc tấu sáo trúc và bộ gõ), Rhapsodie số 2 cho đàn T'rưng và dàn nhạc giao hưởng, Trở về đất mẹ cho violoncelle và piano, đặc biệt là Thơ giao hưởng Đồng khởi. Có lẽ khi viết Đêm đông, Nguyễn Văn Thương không ngờ được rằng rồi nó sẽ đi vào lòng biết bao thế hệ suốt mấy mươi năm như thế. Khi ấy ông mới hai mươi tuổi. Một anh chàng sinh viên nghèo kiết xác, đêm ba mươi không có tiền về quê ăn tết, đi lang thang trong cái lạnh Hà Nội, với bộ quần áo tây cũ và đôi giày tây rộng thùng thình. Chàng ta chỉ đủ tiền ăn ổ bánh mì, dạo qua phố Khâm Thiên, phố ả đào nổi tiếng của Hà Nội bấy giờ, mong tìm một chút ấm lòng giữa khu phố dập dìu đó. Thế nhưng ngay cả khu phố ăn chơi này cũng vắng ngắt, một cô đào nghe tiếng loẹt quệt trên đường (chứ nhạc sĩ lúc ấy làm gì dám bén mảng đến cửa nhà ả đào!) ra đưa mắt nhìn rồi chán nản quay vào, chỉ còn kịp thấy phản chiếu trong gương một cánh tay trần trắng nuỗn xanh xao. Buồn, chán đời và chán bản thân mình, quay về gác trọ và giữa tiếng gió lạnh gào rú bên ngoài, nhạc sĩ ngồi viết. Viết một mạch xong Đêm đông, từ thân phận mình, cảm thân phận người. Bài hát lặp lại mãi từ đêm đông, điệp lại mãi sự điên cuồng của gió! Tuy nhiên, có một điều rất lạ là người ta đã lãng quên nhân vật ký tên chung trong bản nhạc Đêm đông với Nguyễn Văn Thương trong bản in trước giải phóng ở Sài Gòn. Đó là Kim Minh. Kim Minh là một người bạn, người đã trau chuốt lời cho các bản nhạc của Nguyễn Văn Thương. Tuy nhiên, ông này mất sớm. Chính vì vậy người ta cũng thành lạ luôn. Giáo sư - Nghệ sĩ Nhân dân Nguyễn Văn Thương được coi như là một trong những nhạc sĩ tiên phong của âm nhạc cải cách (tân nhạc) ở Việt Namvới các ca khúc Trên sông Hương (1936), Đêm đông (1939)... Và chỉ cần 2 nhạc phẩm Đêm đông và Bình Trị Thiên khói lửa cũng đủ để tên tuổi của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương sống mãi trong lòng những người yêu nhạc Việt Nam. Trong kháng chiến chống Pháp, bằng tài năng và sự tự học hỏi của mình, Nguyễn Văn Thương là nhạc sĩ đã đóng góp công lao to lớn trong việc đào tạo nhiều thế hệ nhạc sĩ nổi tiếng cho đất nước khi chúng ta chưa có trường đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp, trong số đó có những người đoạt giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước như Nguyễn Văn Tý, Văn Ký, Hoàng Nguyễn, Lê Bích... Ông còn là nhà chỉ đạo nghệ thuật ca múa nhạc hàng đầu của Việt Nam. Trong thời kỳ chống Mỹ, Nguyễn Văn Thương từng là trưởng đoàn kiêm chỉ đạo nghệ thuật của hầu hết các đoàn nghệ thuật ca múa nhạc Việt Namđi biểu diễn ở nước ngoài. Hòa bình lập lại, ông là một trong những nhạc sĩ đầu tiên soạn nhạc cho các điệu múa chuyên nghiệp như thơ múa Chim gâu, kịch múa Tấm Cám, Múa ô, Chàm rông... Không chỉ thành công với ca khúc, Nguyễn Văn Thương còn nổi tiếng với những tác phẩm khí nhạc lớn: Rhapsodie số 2, Trở về đất mẹ. Thơ giao hưởng Đồng Khởi từng trình diễn lần đầu tại Leipzig (Cộng hòa dân chủ Đức) năm 1971, Adagio Bên dòng sông Thương, ca khúc Thu Hà Nôi - mùa thu tuyệt vời... Có thể nói trong từng giai đoạn lịch sử, các tác phẩm của Nguyễn Văn Thương đều để lại ấn tượng khó quên cho người nghe. Hiếm có người nhạc sĩ đa tài nào như Nguyễn Văn Thương. Trong suốt quá trình hoạt động nghệ thuật hơn 60 năm, ông vẫn giữ được phong độ sáng tác bền bỉ ở mọi lĩnh vực từ ca khúc cho đến các thể loại quy mô lớn. Với những công lao đóng góp cho nền âm nhạc Việt Nam, nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Ngày 5.12.2002, cây đại thụ của dòng nhạc tiền chiến đã mãi rời xa chúng ta. Ra đi ở tuổi 83, ông đã để lại cho đời một số lượng tác phẩm phong phú về thể loại, đa dạng về phong cách và ngôn ngữ.

Nhạc sĩ Dzoãn Mẫn sinh năm 1919 tại Hà Nội. Cha ông là người mê nhạc cổ truyền dân tộc, chơi đàn bầu và thích nghe hát ả đào, chèo, ca Huế. Từ nhỏ, Dzoãn Mẫn đã được thân phụ "truyền" cái tình yêu đối với âm nhạc, chơi được đàn tứ và một vài nhạc cụ truyền thống khác. Lớn lên, Dzoãn Mẫn dần bị cuốn hút vào dòng nhạc phương Tây, mà chủ yếu là nhạc Pháp đang thịnh hành ở VN bấy giờ. Từ một nhạc công, Dzoãn Mẫn trở thành nhạc sĩ thuở sơ khai của nền âm nhạc VN hiện đại. Chưa đến tuổi 20, Dzoãn Mẫn đã lần lượt cho ra đời nhiều tình khúc lãng mạn như Gió thu (1973), Tiếng hát đêm thu (1938), Một buổi chiều thu (1939) và đặc biệt là Biệt ly (1939). Một tình khúc buồn đến nao lòng và cũng đẹp đến nao lòng, da diết trên từng lời ca nốt nhạc. Dù bị cuốn theo những biến động của lịch sử, Biệt ly vẫn đứng vững trong lòng khán - thính giả ái mộ sau 60 năm đầy thăng trầm thử thách. Nhạc sĩ Dzoãn Mẫn nhớ lại: "Tôi viết Biệt ly năm tôi vừa 20 tuổi. Hồi đó, cha tôi làm việc ở ga Hàng cỏ, Hà Nội. Nhà ở gần ga nên tôi thường hay ra ga chơi, chứng kiến nhiều cuộc chia tay đầy nước mắt trên sân ga, nhất là những đôi trai gái yêu nhau nhưng vì hoàn cảnh phải ly biệt. Ðiều đó khơi dậy trong lòng tôi nhiều cảm xúc và tôi có ý định sáng tác một bài hát về đề tài chia ly." Trao đổi với tác giả Biệt ly, nhớ nhung từ đây Chiếc lá rơi theo heo may Người về có hay? Biệt ly, sóng trên dòng sông Ôi còi tàu như xé đôi lòng Và mây trôi, nước trôi, ngày tháng trôi cùng nước trôi Biệt ly, ước mong hoàng hôn Êm đềm về ru ấm tâm hồn Người yêu đương cách xa đành sống vui cùng gió sương. + Thưa nhạc sĩ, có người cho rằng ông viết Biệt ly xuất phát từ một mối tình lãng mạn thời trai trẻ, đúng không? - Không phải Biệt ly xuất phát từ một tình cảm cá nhân đâu. Tôi không ly biệt tiễn đưa một mối tình nào cả. Có thể dựa vào nội dung bài hát mà nhiều người suy đoán thôi. Tôi viết Biệt ly trong hoàn cảnh chính quyền thực dân Pháp tuyển mộ rất nhiều người VN sang làm thợ hoặc lính đánh thuê cho các thuộc địa khác của Pháp. Sân ga Hàng cỏ bấy giờ sôi động hơn bao giờ hết, liên tục đưa đón tàu đi, tàu về chuyên chở những chàng trai Việt lên đường tha hương. Người đi - kẻ ở. Buồn lắm. Ðau xót lắm. Cái không khí tiễn đưa "không hẹn ngày về" ấy đã tác động mạnh đến tâm cảm vốn day dứt của tôi. Và ca khúc Biệt ly đã nhanh chóng ra đời. + Chắc ông còn nhớ ấn tượng lần đầu tiên tình khúc Biệt ly được biểu diễn chính thức? Ca sĩ nào đã thể hiện bài hát này? - Lần đầu Biệt ly được công bố trước đám đông khán giả là vào năm 1940 ở Hà Nội. chị Phụng, một ca sĩ ở ngõ chợ Khâm Thiên là người đầu tiên hát. Không còn nhớ rõ nghệ danh, tôi chỉ nhớ tên gọi thân mật chị Phụng - một giọng hát được nhiều người Hà thành yêu mến. + Kể từ lần đầu tiên ấy cho tới nay, ông thấy những ca sĩ nào hát Biệt ly có hồn nhất, hay nhất? - Từ năm 1945 trở về sau, do hoàn cảnh đất nước chìm trong chiến tranh, Biệt ly tạm ngưng không biểu diễn nữa. Mãi đến năm 1988 nó mới chính thức được hát trở lại trên các sân khấu trong Nam ngoài Bắc, được đưa vào chương trình "Nửa thế kỷ bài hát Việt Nam" công diễn ở Nhà hát TP. Hà Nội. Cùng với Biệt ly, nhiều ca khúc tiền chiến của các nhạc sĩ khác như Văn Cao, Ðặng Thế Phong, Ðoàn Chuẩn, Dương Thiệu Tước, Hoàng Quý cũng được biểu diễn trở lại. Tôi nghe khá nhiều ca sĩ hát Biệt ly, nhưng có lẽ Lan Ngọc ở trong Nam và Thùy Dung ở ngoài Bắc này là thể hiện được cái ý, cái tình mà tôi muốn gửi gắm. + Thưa nhạc sĩ, trước khi sáng tác nhạc, ông đã đến với âm nhạc như thế nào? Ông có chịu ảnh hưởng khuynh hướng sáng tác nào không? - Có thể nói rằng, thế hệ những người làm âm nhạc chúng tôi là thế hệ tự học, tự mày mò, tự tìm kiếm. Chúng tôi không may mắn được học hành chính quy như các anh chị em sau này. Thời ấy chúng tôi chủ yếu học và tham khảo văn hóa, âm nhạc Pháp. Nên có thể nói, cả thế hệ nhạc sĩ tiền chiến đều chịu ảnh hưởng âm nhạc Pháp, âm nhạc phương Tây. Giống như Ðặng Thế Phong hay Ðoàn Chuẩn, trước khi sáng tác nhạc tôi là một nhạc công biểu diễn nhiều nơi ở miền Bắc. + Nghĩa là ông hoàn toàn tự học âm nhạc, không trực tiếp "thọ giáo" một ông thầy nào? - Ồ, có chứ. Tôi có theo học một ông thầy dạy nhạc người Pháp tên Banal, nguyên chỉ huy một dàn nhạc Quân đội Pháp. Thời gian tôi theo học khoảng 4 tháng. Kiến thức đa phần là về phối âm, phối khí. Tôi nhớ sau một thời gian dạy nhạc và nghe một vài tác phẩm đầu tay của anh em chúng tôi, thầy Banal có nhận xét đại ý rằng:" Các anh làm nhạc theo khúc thức phương Tây, nhưng có cảm giác như đó không phải là phương Tâymà vẫn là của các anh!" + Theo ông, những nhạc sĩ nào thời tiền chiến có sáng tác sâu đậm hồn dân tộc nhất? - Hai anh Lê Thương và Ðặng Thế Phong. Nhạc sĩ Lê Thương với ba bản Hòn vọng phu mà người Việt nào cũng yêu mến. Còn Ðặng thế Phong là người hết sức tài hoa. Anh chơi được rất nhiều nhạc cụ. Anh sáng tác Giọt mưa thu, Con thuyền không bến từ khi còn rất trẻ. Ðáng tiếc, anh mất quá sớm. Có thể nói sự ra đi của anh là một tổn thất lớn đối với bạn bè và cho cả những người yêu mến âm nhạc VN. Phan Hoàng (Thể thao văn hóa)

Đặng Thế Phong (1918-1942) tuy chỉ mang đến cho tân nhạc Việt vỏn vẹn 3 ca khúc: Đêm thu, Con thuyền không bến, Gịot mưa thu (tức Vạn cổ sầu), nhưng hai trong số ba bài đó đều xứng đáng là những kiệt tác bất hủ của tình ca Việt. Ông chỉ viết được ba bài vì ông chỉ sống với nhân gian 24 năm! Câu nói ”tài hoa yểu mệnh” ứng nghiệm vào Đặng Thế Phong không sai một ly. Ông là người thành Nam, nơi đây cũng là quê hương của những nhạc sĩ tài hoa đầu tiên của tân nhạc: Đan Thọ, Bùi Công Kỳ (1919), Hoàng Trọng. Cùng thời với ông là các nhạc sĩ tên tuổi khác: Nguyễn Xuân Khoát (1910), Văn Chung (1914), Nguyễn Văn Thương (1919), Lê Yên(1917), Lưu Hữu Phước (1921), Đỗ Nhuận (1922), Phan Huỳnh Điểu (1924)… Chính lớp nhạc sĩ thế hệ thứ nhất này đã đặt nền tảng cho nhạc Việt qua các tác phẩm danh giá; và sự nghiệp sáng tác của họ đã bắc cầu nối dài từ thời Tân nhạc lãng mạn (Trước 1945) cho đến giai đoạn của nhạc hùng ca rồi lãng mạn cách mạng (1945-1954) đến hiện thực cách mạng (1954-1975), tạo ra một di sản âm nhạc quý báu mà nổi bật nhất là giá trị tư tưởng - lịch sử và nét văn hoá đặc thù Việt Nam. Con Thuyền Không Bến Đêm nay thu sang cùng heo may Đêm nay sương lam mờ chân mây Thuyền ai lờ lững trôi xuôi dòng Như nhớ thương ai trùng tơ lòng Trong cây hơi thu cùng heo may Vi vu qua muôn cành mơ say Miền xa lời gió vang thông ngàn Ai oán thương ai tàn mơ vàng Lướt theo chiều gió một con thuyền theo trăng trong Trôi trên sông Thương nước chảy đôi dòng Biết đâu bờ bến, thuyền ơi thuyền trôi nơi đâu? Trên con sông Thương nào ai biết nông sâu Nhớ khi chiều sương cùng ai trắc ẩn tấm lòng Biết bao buồn thương, thuyền mơ buông trôi xuôi dòng Bến mơ dù thiết tha, thuyền ơi đừng chờ mong Ánh trăng mờ chiếu, một con thuyền trong đêm thâu Trên sông bao la, thuyền mơ bến nơi đâu? Cuộc đời của ông rất long đong, dở dang việc học, sống lang bạt kỳ hồ với nhiều nghề khác nhau: dạy nhạc, vẽ tranh cho báo, ca sĩ… Ông lang thang từ Nam Định lên Hà Nội, trôi dạt vào Sài Gòn, rồi qua Nam Vang, trước khi quay trở về Hà Nội và qua đời tại đó, sau khi viết xong bài hát sầu não nuột như chính cuộc đời mình: Giọt Mưa Thu. Ông mất vì bệnh lao do cuộc sống nghèo khổ, lao lực và bôn ba. Bàn về tác phẩm của ông, mọi người đều thừa nhận rằng ông thuộc lớp các nhạc sĩ tiền phong của âm nhạc lãng mạn Việt với những bản tình ca đầu tiên trong lịch sử rồi sẽ được nhiều nhạc sĩ sau này phát triển trong các dòng chảy tình ca khác. Nếu như ở bản nhạc đầu tay ”Đêm thu” còn mang nặng những âm giai Tây - mặc dù ở phần hai của ca khúc này ông có đưa ngũ cung Việt vào như một kiểu hợp hôn - thì ở bài hát tiếp theo”Con thuyền không bến”, sự kết hợp giữa thất cung và ngũ cung mới đạt đến độ chín của tài hoa. Ngũ cung trong bài này viết theo lối hát sa mạc (bởi thế nghe buồn xa xăm): mi mi mi mi là rề mi (đêm nay thu sang cùng heo may), la la la la mi sol la (đêm nay sương lam mờ chân mây)… lung linh đứng bên cạnh những âm điệu Tây phương với những bán âm chênh vênh: la si la đố si la mi (thuyền ai lờ lững trôi xuôi dòng)… Những âm điệu này được ông lồng vào những lệch phách, đảo phách (syncope) của lối hát ả đào thật lửng lơ. Thật ra đâu phải đợi đến bây giờ mà ở Đặng Thế Phong đã có sự "đông tây giao hoà" rồi, đó là điều các nhạc sĩ đương đại trên thế giới như Olivier Messiaen, Claude Debussy… đã từng làm trong cuộc hành trình âm nhạc chinh phục những âm điệu châu Á của họ. Có lẽ đây chưa hẳn là do ý thức học thuật gì cao thâm mà theo tôi, chính tâm hồn và văn hoá rất Á Đông, rất Việt của Đặng Thế Phong đã làm nên sự hoà quyện tự nhiên và thú vị đó! Phong cách sáng tác này được ông tiếp tục trong ca khúc Giọt mưa thu. Nghĩa là thất cung kết hợp nhuần nhị với ngũ cung, nhưng trong bài này, ông viết có học thuật hơn khi ứng dụng kỹ thuật métabole (chuyển hệ) làm cho âm điệu bài hát trở nên nhiều màu sắc hơn. Bài này, hồi mới lớn cứ mỗi khi mưa, tôi lại bật máy cassette lên nghe, nhất là những đêm mưa nỉ non rơi không nhỏ không to, nghe hoài băng nhão khiến bài hát nghe càng… não nề, nghe mưa như thê thiết hơn. Đặng Thế Phong có mặt trên cuộc đời này quá ngắn ngủi. Ông xuất hiện như một chớp sao băng với một sự nghiệp ít ỏi nhưng có giá trị lớn và vững bền. Ở thời kỳ của ông, khi các tình ca khác còn nói chuyện mây gió hoa lá thì nhạc của ông đã đi vào thân phận và tâm hồn một cách sâu sắc với bút pháp lãng mạn và u sầu. Tưởng như buồn chôn hết cả nỗi buồn trong đó.
Trần Minh Phi (Theo Giai Điệu Xanh)
Tên thật của ông là Cung Thúc Tiến, sinh ngày 27-11-1938 tại Hà Nội. Thời trung học ông học ký và xướng âm từ hai nhạc sĩ Chung Quân và Thẩm Oánh. Năm 1957, ông du học ngành kinh tế tại Australia, cùng thời gian đó ông cũng hoàn thành một số khóa nhạc tại nhạc viện Sydney, về nước năm 1963. Năm 1970 nhạc sĩ Cung Tiến du học tại Anh về nhạc sử, nhạc học và nhạc lý hiện đại. Hiện ông định cư tại Hoa Kỳ. Các ca khúc tiêu biểu: Thu Vàng, Hương Xưa, Hoài Cảm, Hoàng Hạc Lâu, Đêm Hoa đăng, Hương Xuân, Lệ đá Xanh, Mai Chị Về, Mắt Biếc, Ðôi Bờ, Mùa Hoa Nở, Nguyệt Cầm, Thuở làm thơ yêu em và Tổ khúc Bắc Ninh (soạn cho dàn giao hưởng) hợp ca (soạn cho ca đoàn Warland Singers). Ông cũng có một số sáng tác văn chương với các bút danh Thạch Chương, Ðăng Hoàng.
Chiều buồn len lén tâm tư
Mơ hồ nghe lá thu mưa
Dạt dào tựa những âm xưa
Thiết tha ngân lên lời xưa
Quạnh hiu về thấm không gian
Âm thầm như lấn vào hồn
Buổi chiều chợt nhớ cố nhân
Sương buồn lắng qua hoàng hôn
Lòng cuồng điên vì nhớ
Ôi đâu người, đâu ân tình cũ?
Chờ hoài nhau trong mơ
Nhưng có bao giờ, thấy nhau lần nữa
Một mùa thu xa vắng
Như mơ hồ về trong đêm tối
Cố nhân xa rồi, có ai về lối xưa?
Chờ nhau hoài cố nhân ơi!
Sương buồn che kín nguồn đời
Hẹn nhau một kiếp xa xôi,
nhớ nhau muôn đời mà thôi!
Thời gian tựa cánh chim bay,
Qua dần những tháng cùng ngày
Còn đâu mùa cũ êm vui?
Nhớ thương biết bao giờ nguôi?
Sàigòn 1953

Lê Thương là một trong những cánh chim đầu đàn của tân nhạc (cùng thế hệ với Dương Thiệu Tước, Văn Chung, Lê Yên, Thẩm Oánh, Nguyễn Xuân Khoát, Dzoãn Mẫn…), ông từng là một thầy dòng nhưng rồi lại bỏ áo tu - chắc vì tâm hồn quá lãng mạn và đa tình. Tuy vậy, chất "thầy” vẫn còn thấm đượm trong ông nên dù có viết nhạc "hoa bướm”cỡ nào thì ông vẫn được tiếng là nghệ sĩ có cuộc sống rất chừng mực, giản dị và trí thức (sau khi bỏ áo tu ông làm nghề giáo). Lê Thương sừng sững như ngọn núi cao trong tân nhạc với bộ ba Hòn Vọng Phu (1,2 và 3) với câu chuyện thiếu phụ Nam Xương chờ chồng hoá đá. Bắt đầu bằng bài tình ca nhỏ Nàng Hà Tiên từ thập niên 40 đến Hòn Vọng Phu đồ sộ, nhạc của ông tựa hồ là những câu chuyện kể… Kể chuyện tình sử Hồi đó, Lê Thương ôm một mối tình câm, lãng mạn như bài thơ ”Lòng ta ôm một mối tình/Tình trong giây phút thành tình thiên thu…”. Nghe nói, người trong mộng của ông sau này trở thành phu nhân một nhạc sĩ cũng rất nổi tiếng khác: Nguyễn Thiện Tơ - người lưu danh hậu thế với ”Giáo đường im bóng” (bài hát này được tác giả viết lúc mới 17 tuổi, hình như đó là một kỷ lục của Tân nhạc). Tình cảm này đã giúp Lê Thương viết bài “Nàng Hà Tiên”. Ông mượn chuyện khác để nói chuyện lòng mình. Đây là bài hát nhiều người cho là dự báo cho Hòn Vọng Phu - kiệt tác của ông sau này. Nhạc Lê Thương đáng bàn đến nhất là ba bản nhạc trong trường ca Hòn vọng phu với những âm điệu gần gũi âm giai ngũ cung của dân ca Việt Nam và ảnh hưởng của Chinh phụ ngâm khúc. Hòn Vọng Phu 1 được ông viết tại Bến Tre, khoảng năm 1943. Mở đầu bài hát với tiếng trống trận thúc dục: Lệnh vua hành quân trống kêu dồn Quan với quân lên đường Đoàn ngựa xe cuối cùng Vừa đuổi theo lối sông Phía cách quan xa trường Quan với quân lên đường Hàng cờ theo trống dồn Ngoài sườn non cuối thôn Phất phơ ngậm ngùi bay... Người ở lại ngày ngày ôm con ngóng chồng trở về và cuối cùng mỏi mòn và hóa ra đá: ... Người biến thành tượng đá ôm con. Khoảng năm 1946, ông sáng tác thêm Hòn Vọng Phu 2 tức Ai xuôi vạn lý. Người hóa đá vẫn chờ mong, giai điệu nhạc thật buồn: Người vọng phu trong lúc gió mưa Bế con đã hoài công để đứng chờ Người chồng đi đã bao năm chưa thấy về Đá mòn nhưng hồn chưa mòn giấc mơ... ...Mà chờ người đi mất từ ngàn xưa Nàng đứng ôm con xem chàng về hay chưa? Về hay chưa? Có ai xuôi vạn lý, nhắn đôi câu giúp nàng Lấy cây hương thật quý, thắp lên thương tiếc chàng... Hòn Vọng Phu 3 tức Người chinh phu về viết xong năm 1947. Cuối cùng người chinh phu trở về, nhưng cuộc trở về đã quá muộn màng, ai oán: ...Nhớ cố hương lưu luyến tấc lòng mau dồn chân Vết bước đi trên phiến đá mòn còn in dấu Từ bóng cây ngôi mộ bên đường Từ mái tranh bên đình trong làng Nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống Bao mối thương vang động trong lòng. Trường Ca Hòn Vọng Phu đã làm nổi bật tên tuổi của nhạc sĩ Lê Thương trong lịch sử âm nhạc Việt Nam... Cũng mô-típ chuyện tiên và hư hư thực thực như Thiên Thai (Văn Cao) nhưng ở Lê Thương nghiêng về trần thuật (kể) hơn là trữ tình. Ông kể rằng người yêu người rồi đẻ ra tiên, tiên cũng vì yêu nên biến thành một bờ bến thơ mộng và hùng vĩ là địa danh Hà Tiên, một thắng cảnh du lịch: ”Từ mộng thuyền quyên/Tới giấc mơ huyền/…/Từ rày Hà Tiên/Thành một bờ bến…” (Lời bài Nàng Hà Tiên). Lúc này, Lê Thương cho thấy sự nổi bật của ông là ở kỹ thuật cao tay, dám viết những câu nhạc rất dài nhưng khúc chiết, linh hoạt và bay bướm (nếu không có tài và không cao tay ấn sẽ làm câu nhạc dài dòng, rối rắm, khó cảm) cũng như là trí tưởng tượng phong phú, bay bổng. Thập niên 40, ngoài những bản nhạc Tây rất thịnh hành trong thanh niên trí thức mới (thời đó bị lên án là những kẻ khai tử Nho học) thì một số bài hát Nhật cũng được phổ biến rất rộng rãi qua những ca khúc Nhật chuyển lời Việt như: ”Hà nhật quân tái lai” của Văn Chung… (điều này cho thấy ý kiến nhạc Nhật chưa bao giờ ảnh hưởng đến Việt Nam là thiếu cơ sở, ngược lại, nó đã có từ lâu cùng với lúc nhạc Tây du nhập vào nước ta - tuy có ít hơn). Có lẽ vì yêu mến những giai điệu đẹp và man mác của các ca khúc Kohan No Yado, Mori No,Shina No Yoru… Lê Thương đã mượn âm giai Nhật để viết nên bài “Thu trên đảo Kinh Châu” rất được mến mộ thời bấy giờ. Tuy nhiên, đây là một sáng tác có chủ tâm của Lê Thương khi lấy bối cảnh và nội dung Nhật đưa vào bài hát này rồi dùng âm điệu xứ sở Mặt trời để thể hiện. Giai đoạn này, Lê Thương cũng được biết đến với các bài hát “Bản đàn Xuân”, ”Một ngày xanh” là những tình ca buồn êm dịu nhưng tên tuổi ông chỉ thật sự chói ngời khi soạn ra bộ ba bài hát dài hơi và giá trị cao là Hòn Vọng Phu. Đây là sáng tác đánh dấu sự phát triển đến mức cao nhất những thủ pháp viết ca khúc và phát triển ngũ cung, cũng như bút pháp ca từ của “thương hiệu” Lê Thương: sử dụng ca từ như một câu chuyện kể, kể những câu chuyện tình mang dáng dấp sử thi. Tính châm biếm và tâm hồn trẻ thơ Là một nhạc sĩ/nhà giáo nên Lê Thương rất quan tâm đến thời thế, xã hội cũng như tuổi thiếu nhi -một đối tượng chính của giáo dục. Vì thế, trong sự nghiệp âm nhạc của ông còn hai mảng đề tài khác rất thành công là nhạc châm biếm chính trị - xã hội và nhạc thiếu nhi. Như chuyên đề này đã đề cập, cuối thập niên 40, trong làng tân nhạc xuất hiện một xu hướng viết nhạc mới khá độc đáo, không tình ca mà cũng không hùng ca, đó là nhạc hài hước của Trần Văn Trạch (nghệ sĩ này là người đầu tiên của Việt Nam để tóc dài như phong trào hippy sẽ xuất hiện và tạo thành cơn sốt tận thập niên… 60 về sau). Ông lập nhóm ATV, viết mới dân ca thành những bài ca hài hước, phê phán, đả kích rất hóm hỉnh những vấn đề thời sự chính trị/xã hội. Trong danh mục của Trần Văn Trạch, luôn có mặt các bài hát theo phong cách này của Lê Thương. Ông được xem như người tiên phong trong các sáng tác này với các bài: Hoà bình 48 (phê phán sự mỵ dân đội lốt hoà bình), Làng báo Sài thành (đả kích báo giới bồi bút, bất tài và ham tiền), Đốt hay không đốt (châm biếm máu Hoạn Thư)… Những bài hát này sử dụng ngôn ngữ rất bình dân và cách dùng phong ngữ rất giàu địa phương tính (tuy vậy, nó vẫn đảm bảo được tính nghệ thuật chứ không phải như những ca từ bây giờ của một số tác giả trẻ ”học đòi” bình dân nhưng rất phản nghệ thuật). Nhạc thiếu nhi của Lê Thương thì càng tuyệt hơn nữa. Nói không ngoa, ông cùng với Nguyễn Xuân Khoát là hai trong những bậc sư tổ của nhạc thiếu nhi Việt Nam (sau này sẽ ra đời nhiều cây bút bay lên từ nền tảng này: Phong Nhã, Hoàng Long - Hoàng Lân, Phạm Tuyên, Trương Quang Lục…). Ai mà không nhớ những đêm Trung Thu tuổi thơ với lung linh bài hát Thằng Cuội? Cũng là một kiểu kể chuyện duyên dáng gần với đồng dao, và giai điệu đẹp rất Việt đã mang đến cho tuổi thơ chúng ta bao thi vị về chú Cuội, Hằng Nga, cây đa... Rồi lớn lên một chút, chúng ta lại hát vang: ”Học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau…”(bài Học sinh hành khúc). Một tâm hồn mẫn cảm, "hiệp sĩ" và trẻ thơ đã cùng với tài hoa Lê Thương tạo nên những tác phẩm trứ danh thấm đẫm tình quê hương mà vẫn mở lòng ra với bốn phương, chắc chắn là điều để những nhạc sĩ hậu thế khi tiếp cận và thâu thái âm nhạc đương đại thế giới phải ngẫm nghĩ khi đứng giữa ranh giới “học đòi và học hỏi - bắt chước và sáng tạo”.
(Theo Gia Điệu Xanh/Trần Minh Phi)

Không chỉ được công chúng yêu thích qua những bài hát dân dã như "Bức họa đồng quê", "Trăng sơn cước", "Vui bên ánh lửa"..., ông còn có hàng loạt ca khúc lãng mạn, rất tình tứ. Đặc biệt, những tình khúc của Văn Phụng đều xuất phát từ chuyện tình của ông với một ca sĩ vang bóng một thời. Nguyễn Văn Phụng sinh năm 1930 tại Hà Nội, trong một gia đình có 8 người con mà ông là thứ hai. Thuở ấy, phong trào âm nhạc cải cách (tân nhạc) mới du nhập vào Việt Namvà được giới trẻ nhiệt tình hưởng ứng. Văn Phụng đặc biệt có năng khiếu về tân nhạc nên được các giáo sư dương cầm là bà Perrier và bà Vượng dìu dắt rất tận tình. 15 tuổi, ông đã nổi đình đám khi đoạt giải nhất độc tấu dương cầm với bản La Pirière d'une Viege tại Nhà hát Lớn Hà Nội, 16 tuổi ông đã thi đậu tú tài. Ngặt nỗi ông bố (vốn là thông phán) lại quá nghiêm khắc, ông cấm không cho cậu con trai đi theo phường "xướng ca vô loài" mà chỉ muốn con mình làm... bác sĩ, nhưng Văn Phụng theo học ngành y chỉ được một năm rồi bỏ học đi theo tiếng gọi của âm nhạc. Năm 1948, Văn Phụng cho ra đời tác phẩm đầu tay Ô mê ly với tiết tấu sôi động, phấn chấn yêu đời Ô mê ly đời sống với cây đàn tình tình tang... Ô mê ly, mê ly đời ta. Ông thường cùng các bạn bè nam, nữ tụ tập đàn hát với nhau. Nếu như trong đám bạn trai, Văn Phụng như là một "chủ súy" bởi ngón đàn tài hoa thì trong đám bạn nữ vút lên một giọng hát rất đỗi "liêu trai" của Châu Hà, người thiếu nữ Hà Nội có mái tóc dài vẫn thường thả lỏng như một dòng suối. "Trai tài, gái sắc" cứ quấn quýt bên nhau, thế nhưng ông thông phán lại rất ác cảm với nghề xướng ca vô loài nên tìm đủ cách để ly gián tình yêu của con trai mình. Biết rằng gia đình Văn Phụng không chấp nhận mình, Châu Hà phẫn uất đi lấy chồng và theo chồng vào Sài Gòn để xa hẳn một quá khứ đẹp mà... buồn. Châu Hà đi rồi, một thời gian sau Văn Phụng cũng được bố mẹ cưới vợ. Ông chấp nhận như là để khỏa lấp những trống vắng mà Châu Hà đã để lại cho mình. Vợ ông cũng là người Hà Nội nổi tiếng "đẹp người, đẹp nết" rất được bố mẹ chồng thương quý. Đến khoảng đầu thập niên 1950, vợ chồng Văn Phụng đã có 2 người con gái. Những tưởng mọi sự đã an bài, nhưng tình xưa đâu dễ quên... Tất cả những nỗi nhớ thương đều được ông đưa vào các ca khúc của mình Tìm đâu thấy liễu xanh xanh lả lơi. Hay đi tìm dòng suối tóc trên vai. Ghi trong khóe mắt u hoài hình bóng ai. Tôi thấy em một đêm thu êm ái... Người em gái đứng im trong hồi lâu. Tôi ngập ngừng lòng muốn nói đôi câu. Xin cho suối nước non ngàn tìm đến nhau. Như chúng ta đôi đời hàn gắn thương yêu... (Suối tóc - 1954). Rồi không ngăn được tiếng gọi của con tim, Văn Phụng vào Nam. Châu Hà lúc này đã trở thành ca sĩ chuyên hát ở đài phát thanh và các phòng trà cùng thời với những Mộc Lan, Linh Sơn, Ánh Tuyết... Văn Phụng cũng mau chóng hòa nhập vào làng ca nhạc miền Nam. Không chỉ sáng tác ca khúc, ông còn thành lập ban tam ca nam đầu tiên ở Việt Nam với Văn Phụng - Anh Ngọc - Nhật Bằng (1953-1954). "Tình cũ không rủ cũng tới" nhưng... không phải dễ dàng gì bởi còn đó những trói buộc gia đình, còn những lời đàm tiếu, dị nghị chung quanh. Chính những lúc buồn nản nhất, Văn Phụng đã viết Tôi đi giữa hoàng hôn (1962) với điệu slow rock: Tôi đi giữa hoàng hôn, khi ánh chiều buông, khi nắng còn vương. Một mình tôi ngắm cánh chim lạc loài mà lòng thấy u hoài... Tôi thương nhớ ngày qua, trên bến Hoàng Hoa, trên những đường xa, thường thường hai đứa nắm tay nhau tươi cười, như thầm hẹn nhau mùa sau.... Ở Tôi đi giữa hoàng hôn không hề có sự yếm thế, bi thảm mà là một nỗi buồn lâng lâng, siêu thoát, nhẹ nhàng và trầm ấm đầy chất phương Đông: ...Dù cho mưa gió bên mái tranh nghèo. Dù cho nắng, dù cho sương khói mịt mờ, niềm tin yêu hằng xin mãi mãi không hề phai. Nhớ... Nhớ... Nhớ đêm nao trên bến Hoàng Hoa, hai đứa nhìn nhau, không nói một câu... Chính tình yêu đó, cuối cùng, vượt qua mọi trở ngại, "Kim - Kiều" đã lại tái hợp, tạo nên một đôi uyên ương nổi tiếng trong làng ca nhạc Sài Gòn một thời. Văn Phụng - Châu Hà có với nhau 2 người con gái (với người vợ trước ông có 5 gái, 1 trai). Văn Phụng mất ngày 17/12/1999, để lại khoảng 60 ca khúc.

Là em trai của Hoàng Quý, một nhạc sĩ có mặt trong những ngày đầu tiên của tân nhạc. Hoàng Quý cũng là người khởi xướng lên nhóm "Đồng Vọng", đại diện cho âm phái Hải Phòng, hoạt động của nhóm này trong làng âm nhạc từng tạo nên tiếng tăm và sự ảnh hưởng không nhỏ đến không khí bấy giờ. Tô Vũ tên thật là Hoàng Phú, sinh ngày 9.4.1923, tại Phủ Lạng Thương, Bắc Giang. Từng là Viện trưởng Viện âm nhạc cơ sở II tại TP Hồ Chí Minh, Thư ký Đoàn Nhạc sĩ Khu III đầu kháng chiến chống Pháp, một trong những người đầu tiên góp phần xây dựng Trường Âm nhạc Việt Nam (Nhạc viện sau này). Ông còn là một nhà nghiên cứu có thâm niên và uy tín trong lĩnh vực âm nhạc dân tộc cũng như âm nhạc hiện đại. Ông đã có công lớn trong việc đào tạo nhiều tài năng thế hệ sáng tác sau này. Những tác phẩm tiêu biểu: Tạ từ, Em đến thăm anh một chiều mưa, Cấy chiêm, Nhớ ơn Hồ Chí Minh, Tiếng hát thanh xuân, Như hoa hướng dương... Và các tác phẩm hòa tấu dàn nhạc dân tộc, nhạc sân khấu, nghiên cứu về chèo, cồng chiêng, đàn đá; Đã xuất bản: Sách Sức sống của nền âm nhạc truyền thống Việt Nam (Nhà xuất bản Âm nhạc, 1995), Băng nhạc Tô Vũ và Tuyển chọn ca khúc Tô Vũ (DIHAVINA và Hội nhạc sĩ Việt Nam phát hành). 76 tuổi, ông không khỏi gây ngạc nhiên cho người mới gặp về sự tinh anh, nhanh nhẹn của mình. Trong căn nhà thoáng đãng của ông ở đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Tp Hồ Chí Minh, nhiều khi tập hợp cả một đội ngũ những nhạc sĩ từng là học trò của ông, nổi tiếng hoặc không nổi tiếng, họ đến, nói chuyện, uống bia, đàn và hát. Họ quây quần quanh ông, hồn nhiên, mặc dù đầu đã bạc. Ông có cách nói chuyện vồn vã, cuộc sống bận rộn mặc dù đã về hưu và tuổi cũng đã cao. Ông còn mạnh lắm, có vẻ như nhiều việc vẫn đang chờ đợi ông. Người ta gọi ông là Tô Vũ. Tên gọi này gán cho ông từ đầu thời kỳ chống Pháp, khi ông đi Khu III. Người ta quen gọi đến nỗi, nhắc đến ông thời kỳ trước 45, không gọi ông là Hoàng Phú, cứ gọi là Tô Vũ! Tô Vũ là tên người hiền tài thất thế phải chăn dê trong một điển tích Tàu, ông Tô Vũ này để râu dài như râu...dê, hồi đó, ông Hoàng Phú để râu dài (theo mốt bấy giờ), dài đến có thể... vuốt được, thế là không ai khác mà chỉ mình ông, bị gán cho cái tên ấy, thành tên thật hơn cả thật, bởi vì người ta quên hoặc không biết đến Hoàng Phú nữa. Mà cũng đúng thôi, người ta biết đến ông nhiều do Tạ từ và Em đến thăm anh một chiều mưa, chủ yếu là Em đến thăm anh một chiều mưa, sáng tác vào đầu thời kỳ kháng chiến. Lúc này ông đã là Tô Vũ, còn Hoàng Phú em trai của người chủ xướng nhóm Đồng vọng trước đó chưa được ai biết lắm. Bây giờ người ta biết đến ông như một nhà nghiên cứu, người ít quan tâm thì chỉ nhớ đến ông nhờ Em đến thăm anh một chiều mưa, và gần như họ cũng chỉ cần ngần ấy, như họ đã nhớ đến Nguyễn Văn Tý với chỉ Dư Âm, Nguyễn Văn Thương với Đêm đông... Ai đó nói rằng, một nhạc sĩ cần vài ba tác phẩm để định hình phong cách, để khẳng định vị trí của mình. Nhưng có những tác giả, gần như chỉ cần một bài, cũng đủ khiến người đời không thể nào quên. Với những người biết đến âm nhạc như một cuộc chơi, thì Tô Vũ đúng là một trường hợp như thế.
Tôi thấy gần gũi với hình ảnh quê hương"

"Đã có lần tôi xách balô theo mấy ông Tây, đi xe đò rong ruổi từ Nam ra Bắc. Khi nhìn thấy những cánh đồng xanh dịu nhẹ, những đền miếu đứng chơ vơ, nhất là ánh mặt trời ửng màu cam lúc cuối chiều, tôi thấy lòng tràn đầy cảm xúc", - tác giả của ca khúc "Con đường màu xanh" tâm sự. - Là người lắm nghề nhiều việc, anh đã phải thu xếp như thế nào để tham gia "Duyên Dáng Việt Nam 12"? - Tôi phải tranh thủ giải quyết rất nhiều chuyện, đồng thời tiếp tục tập dượt với ban tứ ca của mình. Với tôi, thời gian làm việc lúc nào cũng ít ỏi và qua thật mau, còn thời gian đi chơi với người yêu thì... quên chưa tính. - Cảm nhận của anh sau khi tham gia Duyên Dáng Việt Nam? Làng nhạc nhẹ Việt Nam biết đến TNS qua những tình khúc thật sâu lắng nhưng cũng rất trẻ trung: "Dĩ vãng", "Về đây em", "Tan vỡ", "Con đường màu xanh", "Nhớ", "Quên đi tình yêu cũ", "Nuối tiếc", "Khi tình bay xa"... Trịnh Nam Sơn học sáng tác & hòa nhạc tại Dick Grove School of Music và tốt nghiệp hạng danh dự năm 1986. Anh cũng nhanh chóng được bạn trẻ trong & ngoài nước yêu thích với tư cách là một ca sĩ. Bằng một giọng hát thật truyền cảm, Trịnh Nam Sơn đã lưu diễn khắp nơi trên đất Mỹ, châu Âu, Canada, và cũng từng gặp gỡ khán giả Việt Nam trong chương trình Duyên dáng Việt Nam 12 tổ chức tại Nhà hát Hoà Bình năm 2003. Những dịp cộng tác với nhiều nghệ sĩ viết nhạc phim danh tiếng như Henry Mancini, Bill Conti, Alan Ferguson, Dick Grove, Roger Steinman, Jack Feiberman, và David Angel đã giúp anh thành công trong nhiều hòa âm và ca khúc với nhiều thể loại từ mambo, swing, Dixie tới funk, rock, và hiphop, từ Contemporary pop tới classical, Jazz combo & Big Band đến nhạc thính phòng. - Đây là một chương trình rất quy mô, từ khâu tổ chức, biểu diễn, kỹ thuật, cho tới các anh chị em nghệ sĩ. Tất cả đều hăng say làm việc với tinh thần vì nghệ thuật rất cao. - Trong anh đọng lại điều gì sau những lần về thăm quê hương? - Tôi thấy thật gần gũi với những hình ảnh đẹp và mộc mạc của quê hương. Ngoài hai bài Bốn mùa Hội An và Chiều Tây Hồ, tôi vẫn chưa biết viết như thế nào cho đúng với sự xúc động tràn ngập của mình. - Theo anh, các nhạc sĩ trẻ trong nước nên có hướng phát triển như thế nào? - Để trả lời thoả mãn câu hỏi này đòi hỏi phải có sự quan sát, nghiên cứu kỹ lưỡng và cẩn trọng. Vì ít có dịp tiếp cận với anh em nghệ sĩ trẻ cũng như âm nhạc trong nước nên tôi khó có thể suy đoán chính xác được. Nói chung, với công nghệ thông tin toàn cầu ngày càng phát triển như hiện nay, anh em nghệ sĩ từ Á sang Âu có cơ hội trao đổi đặc thù âm nhạc của quốc gia mình một cách dễ dàng, nhanh chóng. Có lẽ vì vậy mà hướng đi âm nhạc Âu – Á có thể xoay chiều bất cứ lúc nào khi đạt đến cao điểm. - Anh có mong muốn làm một live show tại Việt Nam? - Sau lần tham gia Duyên Dáng Việt Nam12, tôi rất cảm kích trước sự thương mến đặc biệt của khán thính giả trong nước dành cho tôi. Tôi mong rằng sẽ có dịp đáp lại tình cảm đó trong những chương trình riêng, đem đến cho khán thính giả sự thoải mái về cả hai mặt: coi nhạc và nghe nhạc. - Đối với cuộc sống của anh, công việc lập trình nuôi sáng tác hay ngược lại? - Tôi đang nuôi cả hai và cả hai cũng nuôi tôi. Chúng tôi lo cho nhau tận tình. - Gần đây ít có sáng tác mới của anh. Điều gì khiến anh ẩn dật suốt 5 năm qua? - Tôi không ẩn dật, mà chỉ tìm cách quên đi nạn băng đĩa giả trong thị trường âm nhạc tại hải ngoại bằng việc cặm cụi làm việc. - Năm nay, anh ăn Tết như thế nào? - Rất tiếc, năm nay tôi đã không thể ở lại Việt Nam ăn Tết. Trong những ngày này, tôi muốn ở cạnh gia đình để hưởng không khí ấm cúng. Năm nay, tôi và bạn gái đã tranh thủ thời gian để dọn dẹp cái nhà nghệ sĩ đầy giấy tờ và quần áo ngập cả lối đi của mình. Đêm 29, chúng tôi đi hái lộc. Cô ấy tính tình hiền lành và vui vẻ, nên tôi nhờ cô ấy xông nhà để được cười quanh năm. Mùng một Tết, chúng tôi gọi điện chúc Tết mẹ, anh em bạn bè ở xa, sau đó đến nhà chị tôi, cùng các cháu chơi đánh bài cào, ăn mứt, uống trà và tán gẫu.
Lê Minh Sơn: nhạc sĩ của những giọng ca giàu bản lĩnh?

Chưa bao giờ cái tên Lê Minh Sơn được biết đến nhiều như những ngày gần đây, khi Ngọc Khuê, Tùng Dương trong "Sao Mai - Điểm hẹn", và đặc biệt là ca sĩ Thanh Lam trong liveshow "Nắng lên", đều "nhất loạt" chọn những sáng tác của anh để thể hiện. Lê Minh Sơn chia sẻ những tâm sự của mình: - Tôi cũng không rõ là vì sao lại có sự "tập trung" vậy, ngoài cảm giác hạnh phúc của một người sáng tác... * Chứ không phải là do chính anh đã "gà" cho họ hát bài mình sao? - Đừng nói chuyện đó ở những giọng ca giàu bản lĩnh! * Giàu bản lĩnh vì hát nhạc anh? - Không đủ bản lĩnh thì ít nhất, đã không chọn một thứ nhạc khó hát! * Để tạo dấu ấn, anh chủ trương một thứ nhạc thế nào: "khó nghe" hay "khó hát"? - Tôi không chủ trương cái gì cả nhưng nếu vô tình tạo ra điều đó thì tôi cũng không lấy đó làm buồn. * Sự khó nghe của Ngọc Đại cũng đã từng được nhớ với Nhật thực, nhưng lại phải lệ thuộc rất nhiều vào Trần Thu Hà. Anh muốn bị lệ thuộc vào "số ít" sao? - Không được nhiều người hát không có nghĩa là không được hát và không được nghe nhiều! * Dương Thụ, Trần Tiến... - những nhạc sĩ mà anh từng bảo là anh hâm mộ lại nổi tiếng ở những ca khúc dễ nghe, dễ hát - điều đó thực ra cũng đâu có dễ? - Đã đành! Nhưng nói chung, tôi viết thì là viết thôi, thấy cái gì chưa có người nhặt lên thì mình nhặt miễn là tự thấy nó đẹp. * Đến giờ này, anh thấy ai hát nhạc của anh là "đã" nhất? - Mỗi người gánh giúp tôi một tải. Ngọc Khuê - thì đó là những ca khúc "đỏng đảnh kiểu Thị Mầu"! Còn Tùng Dương, với cá tính ấy thì chắc chắn tới đây sẽ còn "bùng nổ" ác đấy! Riêng Thanh Lam thì đúng là một cơ hội như trong mơ của tôi! * Anh đã có cơ hội đó như thế nào nhỉ? - Cách đây bốn tháng, cô ấy gọi điện cho tôi và nói rằng, muốn được cộng tác, thậm chí lâu dài với tôi. Từ đây, tôi sẽ là người biên tập cho các album hay chương trình của Thanh Lam. Và nói chung, cô ấy thuê tôi làm gì thì tôi làm tất! * Chúng ta biết là: cánh nhạc sĩ miền bắc thường thì rất hay tránh nói chữ "làm thuê"! - Tôi ngược lại luôn cảm thấy thoải mái. Làm thế nào để nuôi được vợ con là được! * Đồng lương của một giảng viên guitar tại Trường cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội khiêm tốn lắm sao? - Ừ, tám trăm nghìn đồng/tháng. Và Lê Minh Sơn nói chung là còn nghèo lắm, vì đi làm mà mới chỉ nuôi được vợ con thôi đã thấy mừng lắm! Tôi sống bằng cây guitar chứ không phải bằng ca khúc! * E rằng có ngày anh bỏ nghề mất thôi để làm một "producer" tự do - như phần đa các nhạc sĩ "đắt sô" hiện nay... - Nhà tôi năm đời làm nghề đứng lớp và bản thân tôi đã có hơn 20 năm ôm cây guitar, bỏ ngang sao được? Chưa nói, muốn làm được nhà sản xuất, cũng còn phải học ốm!

Căn hộ của hai vợ chồng nghệ sĩ già Lư Nhất Vũ - Lê Giang nằm trên tầng sáu khu chúng cư đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa như tổ chim mắc trên tàng xanh cây phố. Ở đó, người chồng vẫn dáng gầy gò bên chiếc bàn cũ, ký xướng âm những điệu dân ca, người vợ tóc phơ phơ trắng, còn say mê soi mình qua trang viết với những hồi ký bạn bè, điền dã và bổ sung vào tập bản thảo những bài thơ mới. Hành lang trước nhà, lan nở bốn mùa. Đứng đây nhìn xuống, thấp thoáng dưới tàn lá con đường một chiều người xe trôi đi như dòng sông… Nhạc sĩ Lư Nhất Vũ Người ta thường gọi ông là "nhạc sĩ dân ca", bởi ông không những đóng góp vào nền âm nhạc nước nhà những sáng tác giàu chất dân ca Nam Bộ, mà còn khơi mạch sống cho nhiều làn điệu dân ca Phương Nam tưởng như đã chìm sâu vào quên lãng, đó chính là nhạc sĩ Lư Nhất Vũ. Thể loại chính trong sáng tác của ông là các ca khúc trữ tình, đa số các bài hát này đều được viết trên lời thơ của Lê Giang, người bạn đời tri âm, tri kỷ của ông. Nhưng sắp tới người yêu nhạc sẽ biết đến một nhạc sĩ Lư Nhất Vũ mới ngoài tình khúc qua bản hợp xướng Nam Kỳ khởi nghĩa trong buổi biểu diễn đặc biệt của dàn nhạc giao hưởng thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 28/11/2004. Đây cũng chính là quà tặng gửi gắm tình cảm sâu nặng của nhạc sĩ và nhà hát dành cho khán giả yêu nhạc cách mạng. Tên khai sinh của ông là Lê Văn Gắt, sinh ngày 13 tháng 3 năm 1936, quê ở Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Nguyên Ủy viên Ban thư ký Hội nhạc sĩ VN khóa III. Phó tổng thư ký Hội Âm nhạc TP HCM (1981. Nguyên Phân viện trưởng Phân viện Âm nhạc tại TP HCM. Hiện ở TP HCM. Tháng 6 năm 1962, tốt nghiệp khoa sáng tác của trường Âm nhạc VN (nay là Nhạc viện Hà Nội), ông về nhận công tác ở Đoàn ca múa miền Nam. Năm 1967, công tác tại phòng chỉ đạo Văn công thuộc Vụ Âm nhạc và múa, theo dõi chỉ đạo hoạt động của Đoàn ca múa nhân dân Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên. Năm 1970, Lư Nhất Vũ trở về chiến trường miền Nam, công tác ở Tiểu ban Văn nghệ giải phóng, hoạt động ở chiến trường miền Tây Nam bộ. Sau năm 1975, ông công tác ở cơ quan Văn nghệ Giải phóng, rồi Viện Nghiên cứu Âm nhạc (sau này là Viện Văn hóa Nghệ thuật tại TP HCM) cho đến nay. Những sáng tác thanh nhạc: Chiều trên bản Mèo (1961, hợp xướng), Hàng em mang tới chiến hào (1964), Cô gái Sài Gòn đi tải đạn (Giải A của Hội Nhạc sĩ VN và Ban Thống nhất TƯ), Bên tượng đài Bác Hồ, Hãy yên lòng mẹ ơi, Tiếng cồng vượt thác, Hòn Khoai (nhạc cảnh). Đã xuất bản hai tuyển tập Tiếng đàn quê em (NXB Văn hóa, 1982) và Hãy yên lòng mẹ ơi (NXB Âm nhạc và Hội Nhạc sĩ VN, 1995). Ông có một loạt những công trình nghiên cứu đồ sộ về dân ca các miền Nam bộ đã xuất bản (cùng viết với một số tác giả Lê Giang, Nguyễn Đồng Nai, Thạch An, Nguyễn Văn Hoa, Quách Vũ): Dân ca Bến Tre, Kiên Giang, Cửu Long, Sông Bé, Hậu Giang... Các tác phẩm tiêu biểu: Hãy yên lòng mẹ ơi, Cô gái Sài Gòn đi tải đạn, Bên tượng đài Bác Hồ. (Theo Netcodo) Nhà thơ Lê Giang Cái công đi nhiều không quản chồn chân, cái sức đi đâu cũng chép cũng ghi không biết mỏi tay là gì… ấy là quá trình lao động thể xác mà các nhà sưu tầm đều phải trải qua. Có điều khác với các nhà sưu tầm khác, Lê Giang biên soạn công trình Bộ hành với ca dao này theo cách riêng của một thi sĩ dồi dào cảm hứng sáng tạo… (Nhà thơ Nguyễn Duy - trích lời bạt cuốn Bộ hành với ca dao) Nhà thơ Lê Giang tên thật là Trần Thị Kim, sinh năm 1930 tại Cà Mau; Bút danh: Vũ Kim Sa, Lê Giang. Từng là y tá trong chiến tranh kháng Pháp, Mỹ tại hai miền Nam, Bắc. Tác phẩm: Thơ: Phím đàn xanh, Bông vạn thọ, Ơi anh chàng hát rong. Tạp văn: Gặp gì ăn nấy, xin mời (NXB Trẻ, 2000). Bút ký điền dã: Lang thang gió cát (NXB Trẻ, 2000). Sưu tầm biên soạn: Bộ hành với ca dao (NXB Trẻ 2004) Viết chung với Lư Nhất Vũ trong các công trình: 300 điệu lý Nam bộ, Tìm hiểu dân ca Nam bộ, 200 bài dân ca viết lời mới. Tham gia biên soạn chung với nhóm sưu tầm dân ca Nam bộ: Dân ca Bến Tre, Kiên Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Đồng Tháp, Trà Vinh, Sông Bé…

Gần đây, thị trường âm nhạc xuất hiện một vài giọng hát được coi là hy vọng của năm 2004, trong đó có Hồ Quỳnh Hương với CD “Vào đời” gồm 12 ca khúc của nhạc sĩ Hà Dũng. Giai Điệu Xanh có cuộc trao đổi với nhạc sĩ Hà Dũng về việc sáng tác của anh, về giọng hát Hồ Quỳnh Hương và những chuyện đời... Anh đã có 2 album được phát hành và một số ca sĩ nổi tiếng cũng thường hát bài anh như Quang Dũng, Phi Hùng, anh có cho mình là một nhạc sĩ chuyên nghiệp không? Đĩa trước của tôi tên là Khúc tự tình, bản thân cái tên ấy nói lên rằng tôi "không chuyên nghiệp", tôi viết nhạc cho riêng mình, CD ấy ra đời từ sự khuyến khích của bạn bè. Bây giờ CD thứ hai ra đời, thoạt đầu tôi cũng nghĩ đến nhiều cái tên đang nổi như Thanh Lam, Mỹ Linh, Trần Thu Hà, Mỹ Tâm, Quang Minh, Hồng Ngọc... nhưng tôi vẫn muốn kiếm tìm một người bạn tri âm có thể thể hiện ca khúc của mình đúng như mình mong muốn, và kết quả của cuộc tìm kiếm ấy là Hồ Quỳnh Hương. Và nếu người ta nói Hà Dũng là một nhạc sĩ tài tử, có lẽ cũng đúng! Hồ Quỳnh Hương là một ca sĩ chuyên nghiệp nhưng lại chuyên hát nhạc của anh, một người tự nhận là chưa chuyên nghiệp, có vấn đề gì không? Và khái niệm chuyên nghiệp như tôi hiểu, không phải là anh sống bằng cái nghề đó, mà anh phải đem hết tâm huyết vào nghề, thứ hai, chuyên nghiệp còn ở đẳng cấp kỹ thuật... Còn anh, anh tự thấy kỹ năng sáng tác của mình thế nào?" Tôi vẫn cứ luôn phải nói về chuyện chuyên nghiệp - không chuyên nghiệp theo một định kiến sẵn có ở Việt Nam chúng ta, như là tôi không sống bằng nghề, tôi không có bằng cấp... thì tôi là nghiệp dư. Nhưng nếu nói chuyên nghiệp theo cách anh vừa nói thì tôi cũng xin được... nhận! Cái nhìn của anh về đời sống âm nhạc hiện nay, chúng ta chỉ bàn tới lĩnh vực ca khúc thôi? Âm nhạc là tâm hồn con người nên tôi nghĩ ta không nên áp đặt đời sống âm nhạc phải thế này thế kia. Mỗi nước có những hoàn cảnh khác nhau, vậy cũng không nên so sánh Việt Namvới nơi này nơi khác. Tuy nhiên ở ta hiện nay, theo tôi nhận thấy, trong lĩnh vực ca khúc đang có những sự lạm phát, không chỉ ở bản thân số lượng ca khúc mà còn cả ở cung cách của người sáng tác và người thưởng thức nữa. Nhiều lúc tôi ngồi nghe nhạc mà chẳng hiểu bài hát ấy nói cái gì. Giá như ca khúc của chúng ta khi nghe có thể thấy ngay âm hưởng Việt Nam thì tốt biết mấy! Anh vốn là một doanh nhân, trong kinh doanh có nhiều chuyện khá xa lạ với nghệ thuật, liệu việc anh sáng tác nhạc có phải là một cách "cứu rỗi”? Lúc nào tôi cũng gắn bó với âm nhạc. Tôi cho rằng làm gì thì cũng phải có trách nhiệm với việc mình làm đến cùng. Lý do tôi gắn bó với âm nhạc, thứ nhất là tôi thích, thứ hai là tôi lại làm được. Với tôi, "cứu rỗi" được hiểu như là khi ta muốn thoát ra khỏi những phiền muộn, âu lo hay những gì ám ảnh, ràng buộc mình. Trong âm nhạc người ta không thể nói dối, bởi đó chính là tâm sự của người sáng tác. Nghệ thuật âm nhạc và thi ca đòi hỏi rất nhiều, cả thời gian lẫn tâm sức của người nào trót đam mê. Chúng có thể nuốt chửng đời anh. Vì thế sẽ rất khó khi anh theo đuổi hoạt động nghệ thuật mà chỉ muốn giữ ở mức nghiệp dư, còn để dành thời gian cho kinh doanh. Mặt khác, anh lại muốn đẩy nghệ thuật của mình lên đỉnh cao, anh có thấy “kẹt” không? Tôi nghĩ không phải với ai cũng xảy ra những mâu thuẫn kiểu đó. Với âm nhạc, tôi tin vào khả năng của mình. Tôi ít có dịp nghe lại nhạc của tôi, chỉ khi nào bạn bè yêu cầu thì tôi nghe lại, và đôi lúc tôi cũng tự hỏi: "Sao mình lại làm được điều đó nhỉ?" Tôi luôn tin có những sức mạnh siêu nhiên chi phối mọi việc trong đời. Tôi có thể tự trả lời câu hỏi của chính tôi ban nãy, có lẽ là trời cho tôi, trời cho thì tôi phải giữ lấy. Tôi trông vào những cảm xúc bất chợt và cả những cảm xúc được tích luỹ từ lâu trong tâm hồn, và tôi chỉ biết nỗ lực làm việc hết mình! Lao động nghệ thuật của anh thế nào? Có thuộc loại "khổ sai" không? Chắc là không. Tôi dùng công việc này để làm lối thoát cho công việc khác, bởi vậy khi nào tôi cảm thấy mình sắp thành "khổ sai" ở việc này thì tôi sẽ cố thoát ra bằng việc khác! Tìm được giọng hát Hồ Quỳnh Hương cũng là một hạnh phúc của anh như anh đã nói. Anh chọn Hồ Quỳnh Hương vì giọng hát hay vì điều gì khác? Tôi xin nói lại rằng tôi tin vào trời đất. Khi tôi gặp Hồ Quỳnh Hương, không phải giọng hát của cô ấy thuyết phục tôi. Tôi nhận thấy sự giống nhau giữa Hồ Quỳnh Hương và tôi, nhất là với những chuyện xảy ra trong đời. Thứ hai, rất đơn giản, cô ấy là người biết điều, sống tốt với mọi người. Nếu một người không có phẩm chất ấy thì dù trời có cho một khả năng gì đó thì trời cũng lấy lại ngay thôi. Khi gặp Quỳnh Hương, anh có viết được nhiều ca khúc không? Hay đa số các bài hát đã được viết trước đó? Tôi luôn có cảm giác những bài hát tôi viết ra dù trước kia hay bây giờ đều là để cho Hồ Quỳnh Hương hát, và cô ấy cũng cảm thấy điều đó. Anh có nghĩ giọng hát Hồ Quỳnh Hương sẽ thăng hoa khi hát các ca khúc của anh không? Tôi vẫn nói rằng thật hạnh phúc cho người sáng tác là ở mỗi thời điểm lại gặp được một giọng hát thích hợp. Hồ Quỳnh Hương là giọng hát của ngày hôm nay! Anh có nghĩ âm nhạc của anh là âm nhạc của ngày hôm nay không? Có người trong giới nhạc nói rằng rồi đây người ta sẽ phải nói đến âm nhạc của Hà Dũng, tôi nghĩ, dùng từ "âm nhạc" thì hơi to tát, đó chỉ là những giai điệu mà trong những giây phút cảm xúc, Hà Dũng đã viết được! Đó là những gì mà tôi dành tặng cho cuộc đời này, và nếu có ai đó chia sẽ những xúc cảm của tôi thì đối với tôi, đó là niềm hạnh phúc! Xin cảm ơn anh về những lời bộc bạch thẳng thắn và chân tình trong cuộc đối thoại này.
Trúc Quỳnh thực hiện
(Theo Giaidieuxanh)

Ông là tác giả của 500 ca khúc, 80 kịch bản và tham gia 60 vai diễn trong điện ảnh. Nghệ sĩ Bắc Sơn đã trút hơi thở cuối cùng vào lúc 21 giờ 55 phút, ngày 23-2-2005. Sự ra đi của nhạc sĩ Bắc Sơn là một mất mát đối với những ai yêu ca khúc mang âm hưởng dân ca. Những ca khúc của ông mộc mạc, chân chất như chính hơi thở cuộc sống người dân đồng ruộng. Là một nhà giáo dạy học từ năm 1952 đến 1977, ông không chỉ nghiêm khắc với người khác, mà trước hết với chính bản thân mình. Tôi còn nhớ một lần gặp ông tại Hãng phim Nguyễn Đình Chiểu, ông than: “Buồn quá, đám nhỏ bây giờ ở các hãng băng không hiểu cứ bắt qua phải “đẻ” thật nhiều bài. Chúng nói một cách vô trách nhiệm: “Bố viết na ná như Em đi trên cỏ non, Còn thương rau đắng mọc sau hè… là được rồi, cần gì đầu tư, suy nghĩ. Nhạc có tên bố giờ bán chạy như tôm tươi. Cần gì phải tư duy lâu lắc. Qua hổng chịu cách làm ăn như vậy nên chấm dứt hợp đồng. Thời may về than với vợ, bả đưa liền một tập bản thảo: “Thơ của tôi viết những ngày mình xa nhà. Mình đọc coi có ý gì để viết. Thế là buồn ngủ gặp chiếu manh, tôi tìm thấy trong những vần thơ “hai lúa” của vợ sự đồng cảm sâu sắc”. Nhạc sĩ Bắc Sơn tên thật Trương Văn Khuê (sinh ngày 25-12-1932 tại Phước Lộc, Long Thành, Đồng Nai), sau một thời gian điều trị căn bệnh ung thư phổi đã từ trần lúc 21 giờ 55 phút ngày 23-2-2005, hưởng thọ 74 tuổi. Ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú ngày 3-2-1997. Trong sự nghiệp sáng tác, ông đã viết 500 ca khúc với các thể loại nhạc nhẹ, nhạc âm hưởng dân ca. Linh cữu của nhạc sĩ Bắc Sơn được quàn tại nhà riêng: 130/5 Hồ Bá Kiện, phường 15, quận 10 - TPHCM. Lễ truy điệu được tiến hành lúc 4 giờ 30 ngày 27-2-2005, sau đó đưa về an táng tại Long Thành, Đồng Nai. Rồi ông đọc bằng chất giọng trầm ấm: “Bây giờ anh đi xa, nhớ thương xin gửi lại nhà, gửi cho bụi chuối, luống cà và nụ hoa…” (Tháng mấy anh về?). Thật là đẹp làm sao khi bà gửi gắm niềm thương nhớ ông vào những trang giấy bằng chính nỗi lòng mộc mạc, duyên dáng. Để rồi từ quyển sổ tay vàng úa đó, ông viết hàng loạt ca khúc không chỉ được khán giả trong nước đón nhận mà kiều bào hải ngoại qua tiếng hát Hương Lan bỗng thấy mình đang nhớ về với quê hương và ngưỡng mộ Bắc Sơn – người mang dòng sông dân ca vượt qua ngàn dặm. Những bài hát: Tháng mấy anh về, Hoa đào năm ngoái, Bông bưởi hoa cau, Gió đưa bông sậy, Còn thương góc bếp chái hè, Giấc ngủ trên tay, Mẹ ngồi sàng gạo, Con sáo sậu… đã tiếp nối những giai điệu ngọt ngào như tiếng mẹ ru, như làn gió chở hương lúa trong mùa gặt: Còn thương rau đắng mọc sau hè, Em đi trên cỏ non, Sa mưa giông, Bông bí vàng… được xem là dấu ấn trong sự nghiệp sáng tác ca khúc của ông. Ông sinh ra và lớn lên tại Phước Lộc, Long Thành, Đồng Nai. Năm ông 14 tuổi, cha ông lên đường tham gia kháng chiến và hy sinh. Ông lớn lên trong sự bao bọc của người mẹ tảo tần làm thuê, cấy mướn nuôi con ăn học. Do vậy mà hình ảnh người mẹ bao giờ cũng hiện hữu một cách trìu mến trong ca khúc của ông. “Nắng lửa thon von chồng con bước lên đường và mẹ ru đứa cháu ngoan như ru con của mẹ, vẫn lời ru hoa cau thơm thiên lý nở” (Giấc ngủ trên tay). Với phong thái mực thước, chòm râu quai nón bạc trắng và một tâm hồn sâu sắc, ông bước vào điện ảnh, sân khấu bằng phong cách diễn xuất mộc mạc. Khán giả điện ảnh nhớ ông nhiều với những vai nổi bật: Sĩ (Xa và gần), Năm Ngưu (Vùng gió xoáy), Hai Bạc Liêu (Người tìm vàng), Phúc (Cô Nhíp), ông Tư (Con chó phèn)... Và vai Năm Ngưu đã giúp ông đoạt giải Diễn viên xuất sắc tại Liên hoan Phim toàn quốc lần thứ 9. Sự nghiệp điện ảnh của ông có hơn 60 vai diễn chính, phụ. Có phim chỉ thoáng qua màn ảnh nhưng người xem vẫn nhớ một Bắc Sơn đầy ấn tượng. Trên sân khấu màn ảnh nhỏ, trước 1975 ông nổi tiếng là người thực hiện chương trình “Quê ngoại”. Ông viết hơn 80 kịch bản ngắn, dài. Các nhân vật xoay quanh chuyện nhà nông nhưng giàu suy ngẫm vì chính người viết, người dựng yêu cuộc sống thanh bình. Tôi nhớ hình ảnh của ông với nhân vật đại úy Sáu trong vở Cho tình yêu mai sau trên sân khấu Đoàn Kịch nói Bông Hồng năm 1987. Ông diễn thật tinh tế, ẩn chứa đằng sau vẻ bặm trợn là tâm hồn luôn khắc khoải trước những thân phận mà ông đã bắt gặp. Ông có 9 người con, nhưng chỉ có 2 cô con gái theo nghề là ca sĩ Hạ Châu và nghệ sĩ Bích Lan. Chị Lan đã khóc khi nói về cha mình: “Ba tôi luôn động viên các con phải sống chân thành với nghề. Tôi là đứa con gái duy nhất theo nghề diễn viên như ba tôi, nhưng số tôi gian nan lại thiếu cơ hội để thăng tiến. Khi biết tôi bỏ sân khấu chuyển sang kinh doanh, ba tôi buồn lắm... Tuần trước, tôi khoe sẽ đi diễn kịch lại, ba tôi rất vui. Ông nói miễn con theo nghề đem niềm vui cho mọi người là ba sung sướng... Có thể vì nghèo mà ba tôi không có gì để cho các con, nhưng gia tài ông để lại chính là dòng sông nhân nghĩa”. Bắc Sơn đã ra đi nhưng các tác phẩm, vai diễn của ông vẫn còn sâu đậm trong công chúng.