THIÊN ẤN-TRÀ GIANG biểu tượng của Quảng Ngãi
Sông Trà Khúc là con sông lớn nhất trong 4 con sông chính của tỉnh Quảng Ngãi (Trà Bồng, Trà Khúc, Sông Vệ, Trà Câu), sông phát nguyên từ cao nguyên trung phần (xa nhất) với con sông mang tên Darkrinh. Sông Trà Khúc là hợp lưu của bốn con sông chính : Sông Darkrinh hợp lưu với sông Tang (Trà Bồng) thành sông Darkrinh tại ngã ba sông thuộc xã Sơn Bao (Sơn Hà); khi xuôi xuống hạ lưu khoảng 4 km hợp lưu với sông Dakselo (Sơn Tây) và sông Re (Ba Tơ) tại Hải Giá (Sơn Giang) và chính thức mang tên sông Trà Khúc. Sông Trà Khúc chảy qua nhiều huyện thị của tỉnh Quảng Ngãi trước khi đổ nước vào biển Đông qua cửa Đại. Xét về quan điểm thuỷ văn thì đây là một con sông có nguồn nước phong phú và chế độ dòng chảy không đều – sự chênh lệch tổng lượng dòng chảy năm giữa hai mùa khô và lũ rất lớn; hàng năm về mùa khô thì dòng sông chỉ như một dải lụa uốn quanh đôi bờ với bề rộng vài chục thước nhưng về mùa lũ thì cả một dòng sông là một dòng chảy đục ngầu sủi bọt băng băng chảy về xuôi, gây cảnh lụt lội và ngập úng cho cả một vùng đồng bằng rộng lớn châu thổ như Sơn Tịnh, Tư Nghĩa... Đây chính là tác động xấu của sông Trà Khúc đối với dân cư hai bờ sông đã đã định cư hàng trăm năm nay. Sông Trà Khúc có thể nuôi sống hàng vạn cư dân ven bờ với chế độ phù sa màu mỡ, cá tôm tràn trề nhưng cũng gây thiên tai cướp đi biết bao tài sản và cả mạng sống con người. Còn nhới với những trận lũ lịch sử vào những năm Mậu Dần (1878), Giáp Thìn (1964), Kỷ Mão (1999) đã gây bao đau thương cho một miền rộng lớn xứ Quảng. Với trận lũ năm Mậu Dần (Tự Đức thứ 31) - dân gian gọi là trận “lụt bất quá”, đã để lại những ấn tượng khó phai mờ trong ký ức người dân Quảng Ngãi với nhiều bài vè, nhiều câu hát dân gian đến nay vẫn còn lưu truyền, thể hiện tình cảnh bi đát của người dân Quảng Ngãi lúc bấy giờ: "Ai mà thác mất đã rồi
Ai còn sống lại cũng ngồi nhịn trong
Đói mà sống cũng không xong
Thương người trôi nổi giữa dòng nước sâu
Kẻ kêu than vợ con đâu?
Người thảm cha mẹ, người rầu anh em …"
(Vè Lụt bất quá)

Cầu tràn Hải Giá – Sơn Giang (nay đã thay cầu mới)
Cùng với núi Thiên Ấn, sông Trà khúc trở thành biểu tượng của người dân xứ Quảng và đã được nhà Nguyễn khắc vào cửu đỉnh. Hàng trăm năm nay, dòng sông Trà đã đi vào thi ca nhạc hoạ của những bậc hiền nhân, danh hoạ …. Một dòng sông đã in đậm trong tiềm thức người dân xứ Quảng với những bờ tre, bãi bắp, nương dâu ... và không thể xóa nhòa trong tâm trí người Quảng Ngãi quê tôi

Giang hà tịch mịch vô nhân vấn
Duy hữu ngư ông thức đắc tình
(Bên sông vắng vẻ một mình
Có ông ngư phủ biết tình mà thôi) (Dân ca)
Dân gian đôi bờ định cư hàng trăm năm nay với những câu ca "Sông Trà có núi Long Đầu,
Nước kia chảy mãi, rồng chầu ngày xưa"
Tôi đã nghe hình như là có chuyện “Cao Biền trảm long”. Hổng biết ở đâu nhưng theo dân gian quê tôi thì chính là nơi đây. Mà dù ở đâu nhưng đâu phải dễ có những giai thoại dân gian về những điều xảy ra ở quê mình vậy. Và tôi cũng không biết ai đã sáng tác ra những đoạn thơ có lẽ mộc mạc nhưng đầy nghĩa tình dành cho xứ Quảng tôi nhưng lại gắn với dòng sông thân yêu "Đội nắng. Trắng mây trên sông Trà
Một mình. Tình trải những dấu chân
Thanh xuân mãi cỏ. Quên mình Quảng Ngãi
Hồn nắng nhập hồn tháp. Thơ dâng
Bất chợt
Như lũ như thác như nắng như sương
Như rượu rót,
Mà cũng chẳng như gì cả
Sông Trà trôi dằng dặc dưới trời."
Nội tôi (nay đã thành người thiên cổ) đã từng viết : “Tổ tiên ta gốc từ Thanh-Nghệ
Qua ba lần di chuyển vào Nam
Uống từ dòng nước sông Lam
Sông Trà cuộn sóng mở mang cõi bờ…”
Có lẽ với những điều nghe người xưa nói, nay biết mà nội tôi đã đưa một hình ảnh quá đỗi quen thuộc vào thơ ca của mình-Sông Trà .
Bạn tôi thì có những ưu tư buồn nhớ về cố hương với những hình bóng thân yêu và gần gũi gắn với dòng sông: "Nước sông Trà có còn xanh không nhỉ?
Núi Ấn kia còn vương khói chiều chăng?
Đường hoàng đạo chạy về thôn Thạch Bích
Có còn không dáng thiếu nữ nhu mì …"
Nhà thơ Nguyễn Viết Lãm trong bài thơ “Quê hương” với đôi câu thơ mà tả được những địa danh xứ Quảng với những núi Bút, núi Ấn, sông Trà như sau: Thiên Bút bên này, Thiên Ấn kia
Sông Trà dải lụa nước trong veo
Nghe cứ như man mác làm sao, dòng sông Trà như một dải lụa uốn lượn ôm đôi bờ xứ Quảng và chắt chiu những giọt phù sa bù đắp hai bờ.
Nhà thơ Đinh Thời Nguyễn có bài thơ “Em và bờ sông Trà Khúc” với những suy tư, ngẫm nghĩ và một chút tiếc nuối lang man theo dòng nước chảy xuôi về biển cả “Một ngày chưa hết tháng giêng
Em về má nhạt đồng tiền rồi anh
Bên bờ Trà Khúc vây quanh
Em chưa làm vợ mà thành cô dâu…
…………………………………………�� �…….
Và bờ sông mất niềm vui
Khi tin anh đã nghìn thu không về
Chiều nay mưa gió sông quê
Nhớ anh em nhớ lời thề nước non
Thề rằng còn giac xâm lăng
Em nguyền như một vầng trăng đêm rằm.”
Nhà thơ Vũ Nhuỵ Nhung với bài “Em có về Quảng Ngãi với anh không?” mà tôi đã từng chép tặng một người thương nơi viễn khách; với những hoài niệm và hồi ức về dòng sông nơi đây ....
“Em có về Quảng Ngãi với anh không?
Trong tháng Chạp nước sông Trà xanh lắm
Tuổi thơ anh bao lần chung tắm
Lá thuyền nưa còn trôi mãi giữa dòng.
……………………………….
Và Quảng Ngãi khi em về sẽ hiểu
Cõi lòng anh là ngọn sóng sông Trà.”
Với nhà thơ Bích Khuê cũng là một người con xứ Quảng, đã từng viết những vần thơ oai hùng và hào sảng: "Trà Giang, Thiên Ấn chuông gầm sóng
Vang tiếng ngàn năm đất Cẩm Thành"
Cứ ví tựa như nhà thơ Quang Dũng từng viết “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” , tiếng chuông Thiên Ấn hoà với tiếng sóng sông Trà gầm lên sao nghe hào hùng và vang mãi với đất trời ngàn năm vậy.
Vì sao gọi là đất Cẩm Thành nhỉ? Cẩm là gấm, Cẩm Thành nghĩa là thành gấm. Có lẽ Cẩm Thành nằm bên bờ Trà Khúc nên thơ lãng mạn nên đặt là thành Gấm Hoa chăng? Tôi cũng không biết nữa nhưng nếu Quảng Ngãi không có sông Trà Khúc xem? Cứ như là sa mạc vậy bởi nắng và gió miền Trung khốc liệt vô cùng như Phan Nhự Thức với “Quảng Ngãi 64” từng viết “Nắng Quảng Ngãi tôi về không mũ đội
trời tháng năm gió núi hạ lào bay
thành phố ấy buồn như người xế tuổi
cuộc sống quanh năm khổ luống đất cày
……………………………………..
từng kỷ niệm bây giờ lên tiếng gọi
giọng thổi buồn đêm sông vệ không trăng
cát trà khúc theo sầu bồi lấy tuổi
tôi cúi đầu đời sống lạnh như băng”
Tôi liên tưởng dòng sông quê tôi với dòng sông Xích Bích của Tô Đông Pha - nhà thơ đời Tống - bên Trung Quốc - nhớ dòng sông quê Xích Bích (Xích Bích hoài cổ) đã từng cảm thán: "Đại Giang đông khứ
Lãng đào tận
Thiên cổ phong lưu
nhân vật
(Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông
Sông xưa đào thải hết anh hùng)"
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai )
(Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu)
Chính vì điều đó mà địa danh Quảng Ngãi gắn liền với dòng sông Trà Khúc êm đềm, thơ mộng và hiền hoà. Với sông Trà, trong Thập nhị thắng cảnh thì hình ảnh gắn với sông Trà đã chiếm đa số với Thiên Ấn niêm hà, Thạch Bích tà dương, Cổ luỹ cô thôn, Hà Nhai vãn độ, Long đầu hí thuỷ … và là một dòng sông quê hương của những người con ưu tú xứ Quảng như Đô đốc Tây Sơn Trương Đăng Đồ (làng Mỹ Khê), Bình tây Đại Nguyên Soái Trương Định (làng Tư Cung Nam), học giả, nhà thơ, đại thần triều Nguyễn Trương Đăng Quế (làng Mỹ Khê), nhà yêu nước - thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Cần Vương đầu tiên trong cả nước Lê Trung Đình (làng Phú Nhơn), Bí thư Tỉnh bộ Thanh niên cách mạng đồng chí hội Quảng Ngãi đầu tiên - Trương Quang Trọng (Phú Nhơn), Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi, Trưởng ban chỉ huy khởi nghĩa Ba Tơ Trương Quang Giao (làng Mỹ Khê), nhà lãnh đạo quân sự kiệt xuất Nguyễn Chánh, nhà yêu nước, tác giả Bình Thành Cáo thị nổi tiếng Nguyễn Duy Cung (làng Vạn Tượng), Chí sĩ Cần Vương Thái Thú (thị tứ Thu Xà), nhà yêu nước Nguyễn Thụy (làng Hổ Tiếu), chí sĩ Cần Vương Phạm Cao Chẩm – ông của thầy tôi : thầy Phạm Cao Tuyến (làng Xuân Phổ), … Đôi bờ sông Trà Khúc cũng là quê hương của nhiều tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam như Trần Văn Trà, Trần Quý Hai, Phạm Kiệt, Võ Thứ, Nguyễn Văn Chức, Võ Bẩm, Phạm Văn Đường, Huỳnh Kim, Lê Trung Ngôn, Phan Quang Tiệp …; nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng : Bích Khê, Lệ Thi, Trà Giang, Trương Quang Lục, Nguyễn Viết Lãm, Vân Đông …; các anh hùng lao động Hồ Giáo, Phạm Gần, …; các anh hùng LLVTND Đoàn Liêm, Trương Quang Luật, Lê Quang Nho, Đặng Ngọc Tuấn …
Tôi cũng không biết chánh xác nhà Thơ Tế Hanh với “Nhớ con sông quê hương” là nhớ con sông nào? Bạn tôi thì bảo đó là sông Trà Bồng quê Tế Hanh, với lại Tế Hanh lại là dân chài và để xác thực hơn hắn nói “Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới/ Nước bao vây cách biển nửa ngày sông”. Nhưng với tôi thì có lẽ cụ Tế Hanh đã viết về sông Trà Khúc quê tôi vậy (chí ít là chỉ mình tôi nói thui) “Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Toả nắng xuống dòng sông lấp loáng
…………………………………………�� �…..
Tôi nhớ không nguôi ánh nắng màu vàng
Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc
Tôi nhớ cả những người không quen biết
Có những trưa tôi đứng dưới hàng cây
Bỗng nghe dâng cả một nỗi tràn đầy
Hình ảnh con sông quê mát rượi
Lai láng chảy, lòng tôi như suối tưới..."
Một hình ảnh dòng sông quê hương thanh bình và lãng mạn, để lại cho đời những hình ảnh thân thương và quen thuộc. Có lẽ với câu “lai láng chảy, hồn tôi như suối tưới” thì tôi lại liên tưởng đến hình ảnh dòng sông Trà với dòng nước bồi đắp phù sa hai bờ với bạt ngàn bãi bắp nương dâu ….
Nhà thơ Huỳnh Tiến với “Đêm Trà Khúc” thì với tâm sự một người con xứ Quảng đã “ngất ngây“ với những hình ảnh quen thuộc hôm nay bên bờ Trà Khúc “Trăng phố Quảng vỏ vàng chờ ai ngắm
Mây lững lờ chở đủ nỗi niềm chăng
Gió lang thang hờ hững đếm trụ đèn
Mang mơ mộng ngập ngừng dòng sông nhỏ
Bãi cát trắng nằm yên chờ mưa gió
Dưới chân kè trai gái tỏ niềm riêng
…………………………………………�� �…
Quê hương luôn đổi mới đón mùa sang
Bừng sức sống gió về mang hy vọng
Ta ngây ngất đứng giữa cầu Trà Khúc
Ánh điện lung linh dòng nước cũng lên đèn
Thuyền mơ mộng chở về đầy trăng gió
Bao mơ hồ vui thú giữa đêm đen”

Cầu Trà Khúc nhìn từ núi Thiên Ấn sang
Và thi ca nhạc hoạ luôn lấy sông Trà làm đề tài bất tận, nói hết nói nhiều cũng không tả xiết những nỗi niềm của thi nhân với dòng sông Trà Khúc quê tôi;
Với những sản vật mang đến cho người Quảng Ngãi, có lẽ sông Trà là dòng sông mẹ của tất cả dòng sông ở Quảng Ngãi vậy. Nhắc đến sông Trà thì phải nhắc đến don, bống, guồng xe nước, đập Thạch Nham và không thể không nhắc đến những nhà máy công trình thuỷ điện trên dòng sông này. Đó chính là những ưu đãi của sông Trà Khúc mang đến cho nhân dân đôi bờ sông. Với Don thì theo tôi được biết chỉ có Quảng Ngãi mới có (thế mới gọi là đặc sản mà lị), don là loại nhuyễn thể sống ở nước chè hai (tức vùng cửa sông có nước mằn mặn) và đặc biệt chỉ có ở cửa Đại (sông Trà Khúc) và cửa Lở (sông Vệ). Con don gần giống như hến nhưng có hình ô van khác hến, vỏ mỏng màu vàng đen và bóng. Để làm ra tô don cho thực khách sì sụp thì quả qua nhiều công đoạn như nhủi don (rất vất vả), ngâm don, hấp don, đãi don (kì công lắm) và cuối cùng mới ra một thứ nước lèo màu xanh nhạt múc dzô tô và thưởng thức kèm bánh tráng cùng với gia vị như ớt, chanh, hành hoa, và không thể thiếu tương ớt. Don nổi tiếng nhất có lẽ ở bờ Nam sông Trà với những địa danh nổi tiếng như Thu Xà, Phú Thọ, Vạn tượng …
“Con gái còn son không bằng tô don Vạn Tượng” – nghe sợ quá
Khi nhỏ, má tôi hay mua don, về làm món canh rau muống nấu don- nó ngọt lịm tận kẽ răng sau từng hớp – mùi quê hương sao gần gũi và bình dị quá! Xưa, khi còn bé tôi nhớ người ta ghánh đôi ui (khạp bằng đất nung) và treo lủng lẳng chồng bánh tráng đầu đòn gánh, “Don đây!” tiếng rao nghe ngon lành quá! Vì tô don họ múc ra từ đó dậy mùi thơm mà đến giờ tôi cũng không biết diễn tả như thế nào! Bây giờ thì quán hàng có sẵn, don được múc ra tô với khói nghi ngút nhưng không thể thơm bằng khi xưa? Có lẽ là vì don bây giờ người ta trộn với hến để nấu nên không thơm bằng chăng? Hay tôi là típ người hoài cổ nên cái gì hồi xưa cũng hơn? Tôi cũng không biết nữa nhưng sự thật chắc là vậy.

Nhủi don trên dòng sông quê hương

Ôm bao don nhủi được với nụ cười rạng rỡ
Và một món khác cũng nổi tiếng không kém và là đặc sản cho Quảng Ngãi chính là cá bống sông Trà. Dân gian có câu : “Chim mía Xuân Phổ
Cá bống sông Trà
Kẹo gương Thu Xà
Mạch nha Thi Phổ”
Lòng sông từ đoạn cầu Trường Xuân trở xuống nhiều sạn, cát, tới gần cửa Cổ Lũy con nước lại nhiễm mặn. Nên dù cùng ở trong dòng sông Trà, con cá cũng có hình dáng khác nhau. Vùng nước chẻ hai, nhiễm bùn nên cái vi, đuôi cá như dài hơn, da cá lại đen nên người dân gọi là cá bống mú. Thịt nó bở nên không được chuộng. Chỉ từ đoạn bến Tam Thương trở lên khỏi cầu Trà Khúc, nước hơi xiết, cá thường trườn bám qua sạn, cát nên da con cá trắng, mình thon hơn, đó mới đích thị là là cá bống sông Trà.

Đặc sản cá bống sông Trà nằm trên chợ
Ở phía tả ngạn, ven mé cầu có một xóm nhà nhỏ, cư dân chuyên sống bằng nghề ngày chèo ghe ra xúc sạn, đêm đem những ống tre cột chì ra cắm giữa sông. Bà con gọi đó là "ống trúm" để bắt cá bống. Cá bơi ngược nước, lặn quanh cát sạn hồi lâu mệt mỏi sẽ chui vào miệng ống tìm chỗ núp. Rạng sáng ngư dân chỉ việc chèo ghe hoặc lội ra trút ống bắt cá. Mỗi ống nhiều nhất cũng chỉ mười con. Cá được bỏ vô rổ "mỏ vịt" - một loại bình đan bằng tre trúc dùng đựng cá. Vào bờ, cá được đổ ra từng nia nhỏ như cái mâm để sàng lọc lại lần nữa, chọn cá bống để riêng, đem về kho nấu. Chỉ riêng việc kho cá để giữ được vị thơm nguyên chất lại để dành được lâu cũng là chuyện để các bà nội trợ tranh luận nhau. Phụ nữ Quảng Ngãi, ai cũng tự hào mình có bí quyết kho cá bống riêng. Phải kho bằng nồi đất, trã đất, thêm mắm muối, gừng tỏi, gia vị, canh lửa liu riu 5-6 giờ cho cá rim lại, có thể để dành hằng tháng không hư, khi ăn không cần hâm lại mà mùi thơm vẫn đậm đà, quả là một bí quyết. Khi ăn con cá nhỏ cứ như ngọt ngào với vị ngọt cay mặn rít tận môi và còn ngon hơn nữa khi ăn với cháo trắng.

Đánh bắt cá bống bằng ống trúm – dụng cụ bằng ống tre
Một hình ảnh cũng đầy nên thơ và lãng mạn trên dòng sông Trà chính là những guồng xe nước. Tôi nhớ hình như ở Trung Quốc và Tây Bắc cũng có guồng xe nước với những bánh xe bằng tre, nứa dẫn nước lên nương …. Nhưng có lẽ guồng xe nước ở Quảng Ngãi mà đặc trưng là sông Trà thì lại to lớn và hoành tráng quá. Guồng xe nước trải thành hàng trên sông, lấp lánh, róc rách tiếng nước ngày đêm không ngừng chảy, tạo cho bức tranh sông núi thêm phần sinh động, hùng vĩ mà nên thơ.

Guồng xe nước ven bờ sông Trà Khúc
Với các nhà học giả chuyên nghiên cứu về guồng xe nước ở Quảng Ngãi thì theo P.Guilleminet trong tập “Một ngành công nghiệp An-nam” thì xe nước du nhập vào Quảng Ngãi đầu tiên ở sông Vệ vào khoảng giữa thế kỷ XVIII, trải qua một thời gian dài về sau đến sông Trà Khúc và chính ở đây xe nước được dựng với quy mô và có số lượng lớn. Với học giả Cao Chư đã tìm được tư liệu ghi rất khớp với công trình của Guilleminet, với tên tuổi của người phụ nữ được gọi là “Mụ Diệm”, người đầu tiên đưa kỹ thuật xe nước từ phủ Hoài Nhơn về dựng đặt ở làng Bồ Đề, Quảng Ngãi. Theo Nguyễn Bá Trác trong tập Quảng Ngãi tỉnh chí, thì ở Quảng Ngãi thời điểm 1933 có đến 96 bờ xe nước. Theo Nguyễn Đóa và Nguyễn Đạt Nhơn trong tập Địa dư tỉnh Quảng Ngãi thời điểm 1939, thì sông Vệ có chừng 50 bờ xe nước, sông Trà Khúc có trên 40 bờ. Những guồng xe nước đã ngày đêm chuyển nước tưới cho những cánh đồng ven sông Trà trở nên tốt tươi và thêm trù phú. Nhưng từ khi đập dâng Thạch Nham – công trình thuỷ lợi lớn nhất Quảng Ngãi hoàn thành thì những hình ảnh nên thơ của những bờ xe nước đi vào dĩ vàng và giờ đây chỉ còn là hoài niệm của người dân xứ Quảng. Nghe nói đã có một dự án tôn tạo và giữ gìn các bờ xe nước này nhưng chưa thấy triển khai.
Nằm trên dòng sông Trà tại xã Sơn Nham (Sơn Hà) và xã Nghĩa Lâm (Tư Nghĩa), sừng sững nhô lên một con đập bằng bê tông chặn dòng sông Trà và đem dòng nước xanh mát của sông Trà tưới cho những vùng đất cằn khô sỏi đá của những vùng đất canh tác trong tỉnh. Đây là một trong những công trình tiêu biểu cho ngành thuỷ lợi Việt Nam đang còn non trẻ. Đập Thạch Nham hùng vĩ tung bụi nước trắng xoá cho thấy sức mạnh của con người chế ngự thiên nhiên như thế nào.

Đập dâng Thạch Nham tưới cho gần 50 000 ha
Ngược lên thượng nguồn sông Trà, còn có những công trình thuỷ lợi, thuỷ điện mang tầm vóc quốc gia với những đóng góp lớn của nó đến sự phát triển kinh tế của Quảng Ngãi và Việt Nam. Sơn Tây có thuỷ điện Darkrinh trên sông Darkrinh, công suất 125MW (cỡ vừa) với tổng vốn đầu tư khoảng 3.003 tỷ đồng. Hồ chứa có dung tích 249,3 triệu m3 nước, đập ngăn sông có hình thức bằng bê tông đầm lăn (RCC) – một công nghệ mới ở Việt Nam với chiều cao lớn nhất của đập 94 mét! Một con số khổng lồ cho một vùng đất còn nghèo khó và lam lũ này. Đập có nhiệm vụ trữ nước phát điện và điều hoà dòng chảy cho sông Trà Khúc.

Hồ chứa Darkrinh – xã Sơn Dung – Mô hình 3D
Hồ chứa nước Trong nằng trên sông Tang (Trà Bồng) thuộc xã Sơn Bao có dung tích hồ là 289,5 triệu m3 nước, đập có kết cấu bằng bê tông đầm lăn (RCC) với chiều cao đập cũng gầm trăm mét. Tổng vốn đâu tư khoảng 1250 tỷ đồng, đập có nhiệm vụ tiếp nước cho đập Thạch Nham khi thiếu nước, phát điện (16 MW), nuôi trồng thuỷ sản, giảm thiểu ngập lụt hạ lưu, tạo cảnh quan du lịch, cải tạo môi trường sinh thái cho một vùng rộng lớn và giảm xâm nhập mặn cho vùng hạ lưu

Hồ chứa nước Trong – xã Sơn Bao– Mô hình 3D
Ngoài ra còn có nhiều công trình nằm trên dòng sông này có những nhiệm vụ phục vụ lợi ích con người sẽ và đã xây dựng như thuỷ điện sông Re, thuỷ điện sông Tang, đập dâng Trà Khúc (hạ lưu cầu Trà Khúc mới), thuỷ điện Darkrinh 2 …. Một dòng sông luôn mang trong mình những hoài niệm, hồi ức và tiềm năng dành cho con người xứ Quảng. Tôi chưa muốn dứt ở đây những gì mà dòng sông quê hương mang lại nhưng thấy bài viết thì dài dòng, trình bày thì lủng củng và cũng khó có thể kể hết những gì mà dòng sông mang lại. Thôi thì đành dừng bút và hẹn một dịp khác tái ngộ cùng các bạn với cửa Đại, Hà Nhai vãn độ, Thạch Bích tà dương, Cổ luỹ cô thôn, Long đầu hí thuỷ …..

Đập dâng Trà Khúc (hạ lưu cầu Trà Khúc II) - Mô hình 3D