Vách đá cao cao mây tiếp mây Chõm xanh oằn xuống nhánh thông gầy Chiều về cò trắng như hoa rụng Sáng lại sương hồng tựa khói vây Róc rách dòng trong khe cá biếc Chênh vênh cầu uốn nhịp tre gầy “Thạch Cơ Điếu Tẩu” ai qua đó In bóng sườn non – chiều nắng bay.
Vu Sơn lộc trường
Trên đỉnh Vu Sơn thảm cỏ xanh Khe rêu vàng đẫm nguyệt chia vành Hoa neo ngọc lại – hai bờ mộng Hươu cõng sao về – mấy nét tranh Một tiếng “tác” ngân sương lác đác Đôi tờ lá rụng nước chòng chành “Vu Sơn Trường Lộc” hươu quần tụ Thấp thoáng sao rừng gió uốn quanh.
Vân Phong túc vũ
Núi dựng sông xanh vắt một tờ Dập dờn ngựa sóng cuộn bờm thơ Dòng xuôi sàn sạt gươm mài đá Gió thổi hiu hiu – bọt vẫy cờ Lác đác hoa rừng về góc biển Cao cao tùng bách trải đồi tơ “Giang Phong Túc Vũ” sông thành nhạc Đâu chiếc đò trăng gác mái chờ.
Liên Trì dục nguyệt
Trên nổi hồ mây, dưới đáy mây Lá sen lam biếc nguyệt chan đầy Sao khuya xuống đậu đôi viền lá Vạc lạnh về đưa mấy võng cây Lác đác đài hương vàng cánh đậm Lơ thơ nhành liễu biếc tơ gầy “Liên Trì Dục Nguyệt” trăng đưa lối Một chiếc thuyền con rẽ khói vây.
Cổ Lũy cô thôn
Sông quê – Ảnh Nguyễn Ngọc Trinh
Một dãy trường thành trấn ải biên Còn viền dương lạnh gác bên triền Cô thôn trúc lặng – sương nhòa khói Cổ Lũy thành trơ – gió thoảng nền Buồm cá nâu vênh bờ bến đậu Đàn cò trắng nổi cụm tùng lên “Cô Thôn Cổ Lũy” hư mà thực Dù chỉ nghe qua cũng chạnh niềm.
Hà Nhai vãn độ
Khói sóng ven sông tỏa ráng điều Bến đò đôi cụm, đá xiêu xiêu Hắt hiu cầu uốn nhòa sông nước Róc rách dòng tuôn lạnh thủy triều Một chiếc đò ngang sào quạnh quẽ Đôi dòng khói nhẹ bếp cô liêu “Hà Nhai Vãn Độ” hoa vàng nở Thoảng tiếng “Đò ơi” gió rụng chiều.
Thạch Bích tà dương
Nách đá cao xanh trải nắng tà Lơ thơ cổ thụ lối vàng hoa Đôi dòng suối nhỏ phơi râu bạc Một nhịp cầu ngang bắc lược ngà Thoang thoảng gió vào thơm cửa động Líu lo tiếng hót – lạnh sơn ca “Tà Dương Thạch Bích” còn mây trắng Tiên nữ xa rồi – nhạn vẫn sa.
La Hà thạch trận
Nghìn trước Sơn Tinh trấn Thủy Tinh “La Hà Thạch Trận” đá bày binh Sóng xô hai mũi mây giăng lưới Đá dựng ngàn chòm – đất giải đinh Trận thế thiên thu – hoa trắng bãi Núi sông muôn thuở – nước thanh bình Về thăm di tích, con diều đậu Rúc lạnh trời cao, tiếng ốc linh.
An Hải sa bàn
Biển cát vàng bên biển nước xanh Đôi cao cao trắng xếp mây thành Dã tràng giăng đón trùng dương lại Sóng cát bay mờ ngọn gió quanh Đêm dưới thuyền, trăng neo nửa mặt Ngày trên xe lửa đẩy nguyên vành “Sa Bàn An Hải” trần duyên hợp Bóng mát thùy dương lả mấy nhành.
Thiên Bút phê vân
Đất núi lên trời ngọn bút lông Viết mây năm sắc gió phiêu bồng Văn chương điệp điệp – non hồng ngọn Phù thế phiêu phiêu liễu biếc lòng Đầu Phật ai chôn hằn nhật nguyệt Nóc chùa trời lập nếp rêu phong “Phê Vân Thiên Bút” – mây cuồn cuộn Trời có hay đâu bút nặng lòng.
Long Đầu Hý Thuỷ
Rồng xanh xuống rỡn nước sông Trà Nước tỏa đầu Rồng – sông vãi hoa Lớp lớp đá cao soi đáy biếc Long lanh cát trắng nhuộm dương tà Mây nghiêng Thiên Ấn in vàng đậm Gió vọng Sa Kỳ động sóng xa “Hý Thủy Long Đầu” gieo nhật nguyệt Sông Trà khúc nổi cuộn yên ba.
Thiên Ấn Niêm Hà
Vuông vức in xanh – núi ấn trời Đá hoa sớm tối – bốc mù hơi Bốn phương quần tụ – mây làm tổ Một nét thơ đề – sông hướng khơi Cong vắt chùa xưa – dầm nguyệt dãi Lô nhô tháp cổ – lạnh sao rơi Có Thầy đào giếng khơi dòng nước Biến mất vào thiên ấn độ đời.