Nguyễn Ngọc Hưng và những cuộc dịch chuyển số phận

tháng 11 29, 2014 |


 Nguyễn Ngọc Hưng
Quê quán: Hành Thịnh, Nghĩa Hành, Quảng Ngãi
Nơi ở hiện nay: Đội 10, TT Chợ Chùa, Nghĩa Hành
Hội viên: Hội VH-NT Quảng Ngãi
ĐT: 055.3861312.









Đã từng có hẳn một trang web Nguyễn Ngọc Hưng lấy tên “Nhà thơ nằm một chỗ”; đã từng có nhiều tác giả nhắc đến chuyện “nằm một chỗ” của Nguyễn Ngọc Hưng… và trong rất nhiều bài viết của mình về Hưng, tôi đã từng rút ruột để chắt lọc ra những câu từ đầy tâm trạng rằng: “Hưng vẫn nằm nguyên đó - một vệt nằm xuyên qua hai thế kỷ”, và “hành trình thơ Nguyễn Ngọc Hưng là một cuộc hành trình không cây số”… Thực tế cuộc đời Hưng cũng đúng là như thế…
 Là một người bạn gần gũi của Hưng, là một người bạn thơ của Hưng, tôi cứ bâng khuâng mãi rằng: Dường như số phận của “người thơ nằm một chỗ” này lại gắn chặt với những cuộc dịch chuyển - những cuộc dịch chuyển vừa vui vừa buồn, vừa trần ai, quằn quại lại cũng vừa thi vị đến rúng động lòng người. Trong những cuộc dịch chuyển ấy chứa đựng cả tình yêu, tình mẹ cha, tình bạn, tình người, bởi: đã là người “nằm một chỗ” thì không bao giờ tự mình dịch chuyển theo đúng nghĩa đen của nó. Mà mỗi lần dịch chuyển của Hưng là kéo theo cả một mớ người thân, bầu bạn cùng dịch chuyển theo Hưng. Chao ôi! Là những cuộc dịch chuyển, đau đến thắt quặn thể xác, gian truân trên mỗi bước đường mà đầy nước mắt yêu thương, ăm ắp nhân tình và đẫm chất thơ.
Cái ngày Nguyễn Ngọc Hưng còn là một hạt bụi giữa mù không hư vô xa xưa, có một cuộc dịch chuyển thi vị của một chàng kép hát tuồng về vùng đất này làm người hát rong để rồi kết quả của cuộc dịch chuyển ấy, một ngày của năm 1960 đã cho ra đời một hình hài Nguyễn Ngọc Hưng trong niềm vui trộn cả nỗi lo buồn của người mẹ trẻ. Nhưng rồi, trong sự bảo bọc của tình mẫu tử thiêng liêng và những người thân trong gia tộc, tuổi thơ Nguyễn Ngọc Hưng cũng dần dần bình thản lại, để rồi cắp sách đến trường làng, trường huyện suốt chặng đường học phổ thông từ 1967 đến 1979. Có phải chăng, chính cái máu “xê dịch chủ nghĩa” của người cha kép hát cùng tâm hồn đa cảm của người mẹ thôn nữ đã sớm hình thành ở Hưng một sức học vượt trội và một năng khiếu văn chương từ thuở nhỏ đến trường? Giờ thì, chúng ta - những người bạn của Hưng đều có thể kết luận rằng: đúng là như thế!
Người cha tiếp tục những cuộc dịch chuyển lãng du để lại nỗi cô đơn và tảo tần cho người mẹ trẻ. Và không phụ lòng mẹ, mùa thu năm 1979, cậu bé thiếu cha rưng rưng từ biệt mẹ để làm một cuộc dịch chuyển quan trọng trong đời người: bước vào giảng đường ĐHSP Quy Nhơn. Vượt qua khó khăn của một cậu sinh viên nhà nghèo, Hưng mê mải học hành để tròn 3 năm sau, trước khi thực hiện năm thực tập cuối cùng, kỳ thi tốt nghiệp năm ấy, Hưng đã đạt số điểm thủ khoa toàn khóa cao ngất ngưởng cho dù là điểm của ngành Văn. Tốt nghiệp xong, cùng với bạn bè Hưng tạm từ biệt trường Đại học để về trường phổ thông thực tập. Lần dịch chuyển này lại là một chuyến trở về. Về với mẹ tảo tần, về với quê hương nghèo khó, về với mái trường PTTH xưa để gặp lại thầy cô giáo cũ với khát vọng sẽ tiếp bước trên con đường của nghề dạy học vinh quang cho dù, ai cũng biết, với điểm thi tốt nghiệp thủ khoa kia, ĐHSP Quy Nhơn đã đưa Hưng vào danh sách giữ lại làm cán bộ giảng dạy tại trường Đại học. Cứ tưởng trở về quê rồi trở lại Quy Nhơn, ai có ngờ… cái lần dịch chuyển định mệnh này đã mở đầu cho một quãng đời, một số phận khác của người thơ. Nhìn cái ảnh Hưng chụp bên mộ Hàn Mặc Tử ở Quy Hòa khi về lại Quy Nhơn trong lần dịch chuyển đầy ân tình và đớn đau thể xác, tôi cứ vơ vẩn nghĩ hoài: Hình như Quy Nhơn (đất của Người về) lại trớ trêu không chấp nhận một số phận thứ hai sau Hàn Mặc Tử nên đành cam tâm cắt đứt đường về Quy Nhơn của chàng thi sĩ tương lai Nguyễn Ngọc Hưng. Đã ném chàng sinh viên thủ khoa Nguyễn Ngọc Hưng vào một hành trình bi tráng mới với những cuộc dịch chuyển đau lòng vì bạo bệnh. Thời Hàn Mặc Tử, cùi là bệnh của “tứ chứng nan y” thì đúng khoảng Thu - Đông năm 1982 định mệnh, Nguyễn Ngọc Hưng lại bị đẩy vào một loại nan y mà cho đến bây giờ đã là năm đầu, thập niên thứ hai của thế kỷ XXI vẫn chưa tìm ra nguồn bệnh. Cứ dường như là một loại bệnh dành riêng cho một số phận người.
Từ giã nghề giáo ngay từ ngày đầu sắp bước chân lên bục giảng, từ đó, Hưng buồn bã dịch chuyển đời mình mà địa điểm đến chẳng đâu khác hơn là những bệnh viện trong điều kiện túng bấn của một gia đình nông dân nghèo chỉ có hai mẹ con cút côi thời bao cấp. Hết Bệnh viện Quảng Ngãi rồi lại các Bệnh viện ở Đà Nẵng. Đà Nẵng bó tay lại lủi thủi dịch chuyển về các cơ sở y tế tư nhân ở Quảng Ngãi kéo dài từ cuối 1982 đến hết 1983.
“Có bệnh thì lạy tứ phương”, hai mẹ con lại tiếp tục “sống chung với đói nghèo” để lặn lội dịch chuyển vào Khánh Hòa, rồi Phan Rang, la lết hết bệnh viện này đến Bệnh viện kia, hết ông thầy thuốc tư nhân này đến bà thầy thuốc khác. Khoảng thời gian đói nghèo và tật bệnh này kéo dài ròng rã 4 năm (1984-1988). Ở đoạn dịch chuyển này có một cuộc gặp mà muôn đời sau Hưng và bạn bè chẳng thể nào quên. Số là một lần dì Chín từ Cam Ranh về đưa Hưng vào Khánh Hòa chữa bệnh thì gặp một người phụ nữ buôn ve chai. Đó chính là dì Mười Cư mà sau này, Hưng nhận làm mẹ nuôi của mình. Chồng dì là một người tu tại gia, dì thì nhặt ve chai nuôi con ba con nhỏ, vậy mà đã giang tay đón mẹ con Hưng về cùng ăn cùng ở no đói qua ngày để tìm thầy về nhà mình trị bệnh cho Hưng. Nghĩa trả ơn đền. Ngày dì Mười Cư qua đời, nhóm bạn bè Nghĩa Hành đã thay mặt Hưng vào dự lễ tang. Có một điều đặc biệt nữa là, sau khi dì Mười qua đời, người chồng tu hành kia đã buồn bã ngồi trước bàn thờ vợ tưởng nhớ ròng rã đúng 56 ngày đêm và sau đó lặng lẽ theo vợ về thế giới bên kia như một cuộc trùng phùng chung thủy. Có lần, nhóm bạn Nghĩa Hành đã kể cho tôi nghe câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa mẹ con Hưng và dì Mười Cư như sau: Để thuyết phục mẹ con Hưng về ở nhà mình, Dì Mười Cư thủ thỉ: Đêm qua, tôi nằm mơ thấy có một người đến bảo tôi rằng: ngày mai con đi nhặt ve chai khi đi về hướng đó, con sẽ gặp mẹ con một người thanh niên đang gặp hoạn nạn có một số phận rất éo le, con hãy đưa họ về nhà mình nuôi. Làm được việc đó con sẽ gặp đại phúc ngày sau. Không biết giấc mơ đó là thật hay chỉ là tâm niệm của dì Mười khi gặp mẹ con Hưng. Ôi! Tình người trên cuộc đời này còn đẹp lắm. Đẹp như thể cổ tích long lanh, đẹp và buồn và ứa nước mắt sẻ chia… Và rồi, dù bệnh tật, Hưng vẫn đang thời trai trẻ. Còn mẹ? Tuổi già, sức yếu nên theo con chỉ mới nửa đoạn đường, mẹ đã phải dừng lại. Tiếp theo là một cuộc dịch chuyển đớn đau: Vâng, hai bạn Xuân Anh và Ngọc Thiện đã vội vã vào Nha Trang kịp đưa mẹ con Hưng về Hành Thịnh để mẹ trút hơi thở tàn trên cái nền đất quê hương xem như một niềm an ủi. Xót xa thay, khuya nay đưa mẹ về đến quê thì đúng sáng hôm sau mẹ chính thức rời bỏ Hưng, từ bỏ cuộc đời. Vì mẹ con Hưng đã rời quê lâu ngày, lại về trong đêm nên khi mẹ mất, hàng xóm không kịp biết. Một đám tang lặng lẽ chỉ lác đác mươi người đưa tiễn: xưa hai đôi đũa một mâm/ giờ hai đôi đũa con cầm một đôi/ còn một đôi nữa mồ côi/ nghẹn ngào ai nuốt cho trôi chén sầu. Mất mẹ, Hưng chuếnh choáng, cô đơn giữa trời, giữa cuộc đời, có lúc Hưng chợt đã bi quan: Tiễn mẹ về thế giới bên kia/ lá rắt/ mưa rơi/ âm thầm con ngửa nón cời/ hứng buồn vui của cuộc đời ban cho.
 Mất nơi nương tựa cuối cùng là mẹ, thân bệnh Nguyễn Ngọc Hưng đành ngậm ngùi dịch chuyển về Hành Thịnh để nương tựa với dì Mười. Nhưng gia đình dì lại cũng quá khốn khổ với cuộc mưu sinh. Lúc này, nhóm bạn bè Nghĩa Hành bàn nhau, dịch chuyển Hưng về tá túc ở Trạm xá xã Hành Dũng (gần Chợ Phiên Tam Bảo) – chính nơi cơ quan làm việc của Xuân Anh. Quãng thời gian đó kéo dài từ 1989 đến đầu năm 1991. Đây là một quãng đời cay cực của cả nhóm. Tất cả phải trần lưng làm đủ mọi chuyện để sống và nuôi Hưng. Đây cũng là quãng đời bế tắc nhất của Hưng, đã nhiều lần Hưng có ý định tự tử để bè bạn thảnh thơi. Nhưng rồi, tình bạn, tình đời đã níu Hưng trở lại. Và rồi, từ đây, Hưng bắt đầu vượt qua sự hành hạ của bệnh tật và nỗi u buồn để đến với thơ. Cho đến một ngày kia, không biết có đấng quyền năng nào mang tin đến mà người cha sau bao nhiêu năm biệt tích đã sai người con trai của mình (anh cùng cha khác mẹ của Hưng) đi tìm và đưa Hưng về cùng sống tại xã Phổ Thuận, Đức Phổ. Đây có thể là cuộc dịch chuyển về với quê cha và Hưng cũng tìm được đôi phần ấm áp. Một chái nhà tranh được xây trước sân ngôi nhà của cha bên cạnh một hồ nước và trước mặt là cánh đồng lúa bao la. Ở đấy, Hưng tiếp tục làm thơ. Và tôi chính thức gặp Hưng từ mái chòi tranh này trong một lần đưa vợ con về ngoại cho dù tôi với Hưng đã từng là bạn đồng môn. Cũng từ đây, gia đình tôi chính thức trở thành người thân của Hưng và nhóm anh em thân hữu Nghĩa Hành. Sau vài lần giao tiếp, Hưng tin tưởng giao cho tôi toàn bộ những tập bản thảo thơ Hưng làm (tổng cộng là 13 tập sổ dày với hàng trăm bài thơ). Lúc đó, tôi cứ sợ Hưng chẳng còn sống được bao lâu nên đã liên tục gửi thơ Hưng đi in và giới thiệu ở các báo và tạp chí. Những bài thơ lần lượt xuất hiện, số phận người thơ lần lượt được mọi người biết đến. Nhưng công bình mà nói, lúc đó, thi pháp thơ Hưng trong 13 tập bản thảo kia đa phần là được diễn đạt theo lối thơ truyền thống, bài nào cũng được Hưng trút ra với tất cả nỗi niềm nên rất dài. Cần phải tạo môi trường để Hưng tiếp xúc và đọc thơ mới. Thấy một thằng cha giáo viên nghèo lại quê Quảng Nam mà bôn ba vì bạn, nhóm anh em Nghĩa Hành lại hè nhau bàn bạc và dịch chuyển Hưng về ở với gia đình Xuân Anh - Thu Hà tại thị trấn Chợ Chùa. Như vậy là sau hơn 2 năm (1992-1993) về với quê cha, Hưng lại dịch chuyển về chốn cũ và gắn cuộc đời mình với mái gia đình này, với đám bạn bè thủy chung này từ đó đến hôm nay. Có thể nói, cuộc dịch chuyển từ nhà cha ở Ðức Phổ về nhà bạn ở Nghĩa Hành là cuộc dịch chuyển mang tính quyết định của cuộc đời thơ Hưng. Từ mái nhà của vợ chồng Xuân Anh - Thu Hà, trong vòng tay của bạn bè thân hữu với đầy đủ phương tiện thông tin, sự mến mộ của bạn đọc gần xa, thơ Hưng bắt đầu dịch chuyển về với cuộc sống đương đại, hơi thơ đương đại để chính thức trở thành một nhà thơ với hàng loạt tác phẩm giá trị ra đời.
Thơ ca đã thực sự trở thành công cụ để Hưng sống giữa cuộc đời, trở thành liều thuốc để Hưng chống chọi kiên trì cùng bệnh tật. Và chính thơ ca đã giúp Hưng nối mình với cả thế giới bao la qua cuộc thi thơ quốc tế “Một trái tim một thế giới” dành cho người tàn tật. Hưng được giải thưởng thơ và… một cuộc dịch chuyển độc đáo đã đến với Hưng và những người thân - Dịch chuyển về thủ đô Hà Nội để dự lễ trao giải của cuộc triển làm thơ quốc tế “Một trái tim một thế giới” năm 2000. Không phải ngẫu nhiên mà nhạc sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn đã chọn bài thơ “Huyền thoại lá” đạt giải của Hưng để vẽ tranh minh họa. Chính thơ và tình bạn đã đưa “nhà thơ nằm một chỗ” dịch chuyển về với Hà Nội dấu yêu của đất nước mà rất nhiều người Việt Nam bình thường đã bao lần ước mơ mà không phải ai cũng được một lần được đến. Đội cận vệ bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sẵn sàng. Và chiếc băng ca đặc biệt đã đưa nhà thơ thân yêu của chúng ta và những chiến hữu chí tình vào viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh trong rưng rưng nước mắt. Để rồi một năm sau (2001), sau cuộc dịch chuyển dài về thăm lăng Bác, Hưng lại làm một cuộc dịch chuyển gần mà vô cùng ý nghĩa: về thăm mộ mẹ ở Hành Thịnh để làm những thước phim về cuộc đời mình. Nơi mà ngày mẹ mất, chỉ bạn bè, người thân đưa mẹ về yên nghỉ, còn Hưng thì vẫn chỉ nằm yên một chỗ để điếng lòng đau theo nhịp trống di quan. Bộ phim “Huyền thoại lá” đạt giải Vàng LH phim TH toàn quốc chính là sự khẳng định sức chinh phục của thi ca, sức chinh phục của tình bạn, tình người. Như được tiếp thêm sức mạnh, 1 năm sau (2002), Hưng lại dịch chuyển về trường Đại học cũ, đất Quy Nhơn cũ thăm trường xưa và thầy cô giáo cũ. Thủ đô - Bác Hồ - Mẹ và Thầy dường như nối liền thành một cuộc dịch chuyển đầy ý nghĩa. Thầy cũ đây rồi, trường cũ đây rồi, Hàn Mặc Tử đây rồi, hai số phận, hai cuộc đời thơ cùng một niềm san sẻ…
Nói tóm lại, tuy “nằm một chỗ” nhưng số phận và đời thơ Hưng là một một chuỗi những cuộc dịch chuyển thể xác và những cuộc viễn du tinh thần đầy sức sống và đầy chất thơ. Để cuối cùng Hưng đã dịch chuyển chính cuộc đời tưởng đã bỏ đi của mình về với cuộc sống, về giữa con người và đem thơ chiến đấu cùng bệnh tật, lấy thơ làm lẽ sống để mãi mãi đem sức mình hiến dâng cái đẹp cho đời.
Tiến sỹ Mai Bá Ấn

Đọc thêm…
Comments
0 Comments

Lễ đón nhận Bằng xếp hạng di tích lịch sử, văn hóa cấp tỉnh Mộ và nhà thờ Lương Công Nghĩa

tháng 11 29, 2014 |
UBND xã Hành Trung, huyện Nghĩa Hành vừa tổ chức Lễ đón nhận Bằng xếp hạng di tích lịch sử, văn hóa cấp tỉnh Mộ và Nhà thờ Lương Công Nghĩa.
 Tham dự buổi lễ có ông Lê Quang Thích, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh; ông Cao Chư, Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; ông Nguyễn Trọng Cơ, Phó Giám đốc Trung tâm Bảo tồn unesco; ông Phan Bình, Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch HĐND huyện; ông Bùi Đình Thời, Phó Chủ tịch UBND huyện cùng đông đảo bà con dòng tộc họ Lương. 

Ngài Thủy tổ Lương Công Nghĩa

        Ngài Thủy tổ Lương Công Nghĩa, sinh năm Canh Dần 1530 tại làng Lương Niệm, tổng cung Thượng, huyện Quảng Xương, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa, nay thuộc thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông sinh ra trong giai đoạn có nhiều biến động lịch sử của những năm đầu thế kỷ 16, trong đó có cuộc chiến tranh Lê-Mạc. Từ đó đã thôi thúc Lương Công Nghĩa cùng với những lưu dân từ vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh đến vùng đất mới Quảng Ngãi theo chính sách dinh điền bấy giờ của Nguyễn Hoàng.
Khai trống buỗi lễ

           Lương Công Nghĩa và vợ là bà Huỳnh Thị Lý đã cùng với những lưu dân đến vùng Hiệp Phổ, xã Hành Trung, huyện Nghĩa Hành để khai hoang, lập làng, biến một vùng đất sình lầy, hoang hóa, trở thành khu dân cư trù phú, đồng lúa tốt tươi.

Ông Đặng Kim Dũng, Trưởng phòng VH&TT đọc báo cáo tại buổi Lễ 

Tại buổi lễ, ông Đặng Kim Dũng, Trưởng Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Nghĩa Hành báo cáo có đoạn: Hiện nay ngôi nhà thờ còn lưu giữ thần sắc của Ngài Lương Công Nghĩa có tước thần là “Tương vũ chiêu Nghị Trung đẳng thần”. Theo kết quả nghiên cứu thì Ngài Lương Công Nghĩa và vợ là Huỳnh Thị Lý cùng chiêu mộ lưu dân lên khai khẩn theo lệ Chính sách dinh điền, khẩn hoang lúc bấy giờ. Ngoài việc khẩn hoang, Lương Công Nghĩa còn hướng dẫn cho dân làng trồng trọt, đào kênh thủy lợi Đồng Lát hơn 2.000m kéo dài từ sông Hiệp Phổ là nhánh sông của dòng sông Phước Giang chảy xuống tưới cho các vùng Đồng Thâm Trung, Đồng Lát, Mương Ổi, Vùng đồng Mã Tổ thuộc khu vực phía bắc sông Hiệp Phổ.

Về phía cận Bắc giáp Phú Văn có mương Lá Huề, vùng cồn súng, vùng ruộng Tròn. Ngoài ra ở vùng Hiệp Phổ Trung còn có mương Bàu Hữu, mương dài 6.000m tưới cho cánh đồng Thủ Hành, ruộng Rộc Kiểng, bàu ông Chánh, bàu Tong. Trước đây, trên dòng sông Hiệp Phổ (một đoạn của Sông Phước Giang là thủy lộ) thông thương buôn bán của các ghe bầu. Hiện nay trong tộc phả họ Lương ở huyện Nghĩa Hành có câu đối ca ngợi Lương Công Nghĩa .

“Tự Bắc chinh Nam, nhất tướng bình Chiêm Châu Phổ Lập

Khai thành cấp địa vạn dân định, Việt phú an đồ”

           Lương Công Nghĩa từ trần ngày 17 tháng 3 năm Bính Ngọ 1606, hưởng thọ 76 tuổi. Mộ của ông được đặt ở đầu đồng Mã Tổ.

          Để tưởng nhớ công đức của vị tiền hiền đã có công mở làng lập ấp, nhân dân thôn Hiệp Phổ, xã Hành Trung và gia tộc họ Lương đã đóng góp công, của xây dựng nhà thờ để lưu giữ hiện vật và làm nơi cho con cháu đời sau đến thăm viếng tưởng nhớ công lao của ông. Nhà thờ Lương Công Nghĩa đã qua 18 đời thờ phụng và sau 03 lần trùng tu  vẫn giữ được nét kiến trúc cổ xưa, góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Nhà thờ có chiều dài 13,17m, chiều rộng 8,9m, tổng diện tích xây dựng gần 122 mét vuông.

          Để góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống lâu đời của địa phương, gia tộc họ Lương tổ chức lễ tế tiền hiền Lương Công Nghĩa vào ngày 17 tháng 3 âm lịch hàng năm. Đây là dịp để con cháu họp mặt, ôn lại truyền thống gia tộc cũng như ôn lại cuộc đời và sự nghiệp của Lương Công Nghĩa, nhằm giáo dục cho con cháu truyền thống yêu nước, uống nước nhớ nguồn, kết chặt tình đoàn kết trong tộc họ.

Ông Nguyễn Trọng Cơ trao giấy chứng nhận của Unesco cho họ Lương

        Phát biểu tại buổi lễ, ông Bùi Đình Thời, Phó Chủ tịch UBND huyện Nghĩa Hành nhấn mạnh: Trong buổi lễ long trọng này, thay mặt lãnh đạo huyện, tôi biểu dương Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã Hành Trung, đặc biệt là bà con tộc họ Lương đã có công giữ gìn ngôi mộ và nhà thờ, tiếp nối các thế hệ trước  bảo lưu các giá trị văn hóa liên quan đến Ngài Lương Công Nghĩa. Để tiếp tục phát huy có hiệu quả giá trị của di tích Mộ và Nhà thờ Lương Công Nghĩa trong công cuộc đổi mới hiện nay và giữ gìn bắn sắc văn hóa của địa phương, hòa cùng với các di tích lịch sử văn hóa trên địa bàn huyện theo quy định của Luật Di sản văn hóa. Tôi đề nghị UBND xã Hành Trung thực hiện theo đúng mục c, Điều 6 và mục 2 Điều 7 của Chương 2 tại Quyết định số 28, ngày 24/6/2013 của UBND tỉnh Quảng Ngãi về việc ban hành quy định phân cấp quản lý di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh và tôi  đề nghị UBND xã Hành Trung, Phòng Văn hóa và Thông tin và gia tộc họ Lương có trách nhiệm bảo vệ và phát huy giá trị di tích; hướng dẫn giới thiệu du khách đến viếng, tham quan và hàng năm, tổ chức lễ giỗ phải trang trọng, tiết kiệm, góp phần giáo dục truyền thống văn hóa và cách mạng cho cán bộ và nhân dân ở địa phương trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị di tích.

                 Ông Lê Quang Thích, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh trao bằng công nhận Mộ và nhà thờ Lương Công Nghĩa    
     
        Nhà thờ Lương Công Nghĩa là một công trình kiến trúc tín ngưỡng đương đại mang phong cách truyền thống; những hình tượng trang trí, đắp nổi rồng , lân, hoa sen trên các bao lam; Lưỡng long tranh Châu, kết cấu kiến trúc di tích hình chữ nhất; mái cong hình đầu đao là những hình tượng nghệ thuật kiến trúc thời nhà Nguyễn. Hiện nay, di tích còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị lịch sử gồm hoành phi, liễn đối, hàm ân có niên đại cổ xưa và những tư liệu biên bản cấp ruộng đất cho họ Lương thời chính quyền Sài Gòn đã được dòng họ trân trọng gìn giữ, truyền lại qua nhiều đời. các hiện vật này không chỉ là những bằng chứng xác thực ghi đấu công đức của ông trong công cuộc khai hoang, lập làng hiệp phổ vào cuối thời hậu Lê, thế kỷ 16 mà còn góp phần nghiên cứu lịch sử khai hoang của tỉnh Quảng Ngãi nói chung.


Trồng cây lưu niệm

 
Công ty TNHHSXTMDV Hòa Thắng TPHCM và họ Lương tặng quà cho hộ nghèo 

        Nhân dịp này, Công ty TNHH sản xuất thương mại dịch vụ Hòa Thắng, thành phố Hồ Chí Minh và Gia tộc họ Lương đã tặng 06 suất học bổng và 13 suất quà cho người cao tuổi và các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, mỗi suất trị giá từ 400 đến 500 nghìn đồng./.

Bài&ảnh: Ngọc Diệu









Đọc thêm…
Comments
0 Comments

Thắng cảnh Suối Chí

tháng 11 29, 2014 |
Thắng cảnh Suối Chí với diện tích rộng khoảng 15 ha, nằm cách Thành phố Quảng Ngãi 24 km về phía Nam, thuộc địa bàn thôn Khánh Giang và Trường Lệ, xã Hành Tín Đông, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi, đây được xem là một thắng cảnh đẹp của huyện Nghĩa Hành nói riêng và của tỉnh Quảng Ngãi nói chung, có giá trị rất lớn trong phát triển kinh tế xã hội, nhất là phát triển du lịch sinh thái.
 
Suối Chí nằm ẩn mình dưới khu rừng nguyên sinh, tổng diện tích của khu rừng 1.012ha, nhân dân nơi đây thường gọi khu rừng này là rừng Cộng đồng vì toàn bộ khu rừng này đã được giao cho 350 hộ dân thuộc hai thôn Khánh Giang và Trường Lệ, xã Hành Tín Đông quản lý. Địa danh “Suối Chí” không biết xuất hiện từ khi nào? Ai đã đặt tên hay gắn liền với sự kiện lịch sử nào? Theo những người dân cao niên hiện đang định cư sinh sống tại nơi đây cho biết: Tên “Suối Chí” đã có từ lâu, từ lúc lọt lòng đã nghe đến địa danh này.
Tổng chiều dài của dòng suối khoảng 4km tính từ đầu nguồn đến khi hợp lưu với dòng sông Vệ. Điều đặc biệt ở dòng suối này là chưa bao giờ cạn nước, quanh năm, bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông luôn tuôn chảy dòng nước trong vắt dội vào khe đá tung bọt trắng xóa. Ở về phía hạ nguồn của dòng Suối, con người đã đắp đập để ngăn dòng nước và tạo thành hồ chứa với diện tích khoảng 03ha. Từ hồ chứa nước này ngược dòng men theo con nước, ở hai bên bờ suối là những cây cổ thụ to, cao, buông rễ dài, bám vào những tảng đã lớn, tạo nên khung cảnh rất đổi hoang vu nhưng thật hùng vĩ. Tính từ đập Suối Chí ngược dòng khoảng 3km có khoảng hơn 10 thác nước lớn, nhỏ. Trong đó đáng chú ý nhất là thác Dê. Thác Dê có độ cao 4m, bên dưới thác nước có một hồ tự nhiên rộng khoảng 100m2, sâu 2,5m, dòng nước xanh biết, mát lạnh; bên bờ hồ là những vách đá cheo leo dựng đứng và có những tán cây cổ thụ nghiêng mình tỏa bóng xuống mặt hồ, tất cả đã hòa quyện lại tạo nên bức tranh thiên nhiên rất kỳ vỹ. Cùng hòa quyện giữa tiếng thác nước reo, tiếng nước róc rách chảy từ những khe đá là tiếng kêu của động vật hoang dã, mà đặc biệt là tiếng gáy của tiếng chim cu đất, cu xanh, tiếng kêu thánh thót của chim đội mũ, lãnh lót của chích chòe lửa,....
Một điều đặc biệt ở thắng cảnh này là: Trong những năm tháng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khu vực Suối Chí được cách mạng chọn làm địa điểm để xây dựng căn cứ, cán bộ cách mạng dựa vào rừng núi hoang vu, hiểm trở để đánh đuổi kẻ thù xâm lược. Cũng chính tại đây vào ngày 19/4/1969 bọn Mỹ - Ngụy đã gây nên vụ thảm sát kinh hoàng, dã man, vô nhân tính, chúng đã giết hại 63 người dân thường vô tội... Chính vì vậy ngày nay khi đến với thắng cảnh Suối Chí chúng ta không chỉ chiêm ngưỡng vẻ đẹp kỳ vỹ của thiên nhiên nơi đây mà còn được nghe câu chuyện hào hùng về những năm tháng bám đất, giữ làng, dựa vào rừng núi để đánh giặc cứu nước của thế hệ cha, anh và những câu chuyện, sự kiện đau thương của nhân dân nơi đây phải gánh chịu.
Tin & ảnh: Thanh Quang

Đọc thêm…
Comments
0 Comments

Nhà cổ ông Tú Tiên (Nguyễn Gia Tiên)

tháng 11 29, 2014 |
Nhà cổ ông Tú Tiên tọa lạc tại thôn Long Bàn Bắc, xã Hành Minh, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi. 


Mặt trước của ngôi nhà ông Tú Tiên 

Ngôi nhà được tạo dựng vào năm 1923 (Quý Hợi) theo lối kiến trúc cổ của người Việt, tổng diện tích mặt nền nhà 400m2, nóc nhà có độ cao 5,5m, mặt nhà quay về hướng Nam, mặt trước ngôi nhà được xây theo kiểu mái vòm, sơn màu trắng nhạt, phía trước trên hai góc của ngôi nhà có gắn hai con nghê được làm sứ tráng men, toàn bộ tường nhà được xây bằng gạch thẻ nung kết hợp với xi măng - vôi, bên trong nhà có 16 cột gỗ lim đen bóng loáng, chiều cao thân cột 4m, đường kính 3,5–40cm; về phía gian thờ có ba gian thờ làm bằng gỗ lim, được chạm trổ, điêu khắc với những nét hoa văn độc đáo, tinh sảo về hình dáng của hoa cúc, hoa lan, Rồng, Phụng…. và được bố trí ở 03 hướng Đông–Tây–Nam; phía trước các gian thờ có 08 bức hoành phi liễn đối cổ được viết bằng chữ Hán. Ngoài ra bên trong nhà còn lưu giữ 1 chuông đồng cổ với chiều cao 60cm, miệng chuông rộng 40cm (hiện chưa xác định niên đại).
         Trước nhà có xây cổng ngõ gồm: 01 cổng chính với chiều cao đến đỉnh là 3m, cổng nhà được xây theo kiến trúc cổ, phần mái cổng được lợp ngói vi cá, hai bên được xây hai bức tường và có hai trụ biểu hai bên, bên trên đỉnh của hai trụ biểu có gắn hai con nghê được làm bằng sứ tráng men, cổng vào được xây theo kiểu vòm (hình chữ U ngược), sau khi đi vào cổng, có một bức bình phong được xây chính diện với cổng, mặt giữa bức bình phong có khắc hình “Quyển” và đắp nỗi một chữ Hán ở chính giữa. Ở hai bên bức Bình phong là hai đường chính vào nhà, hai bên đường được trồng hoa, phía sau bức bình phong có một ao sen được xây bằng xi măng và gạch với diện tích mặt hồ 20m2, xung quanh hồ sen là khu vườn nhỏ được trồng cây ăn quả, cây bóng mát  (bưởi, chôm chôm, ổi).

Cổng vào nhà ông Tú Tiên

            Điều đặc biệt ở ngôi nhà này là: Trong 09 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, ngôi nhà của Ông Tú Tiên được cách mạng dùng làm cơ sở hoạt động cho các đồng chí lãnh đạo miền Nam Trung bộ như: Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Chủ tịch UBKC Hành chính Nam Trung bộ Nguyễn Duy Trinh. Nơi ở và làm việc của Hoàng thân Xuphanuvong, Cayxon Phonvihan và nhiều cán bộ của cách mạng Việt Nam và Lào. Đối với cá nhân Ông Tú Tiên: Ông là nhà trí thức yêu nước, trong giai đoạn năm 1948–1949 Ông là Hiệu trưởng Trường Trung học Bình dân Nam Trung bộ; năm 1950–1952, Ông là Hiệu trưởng Trường Lê Khiết; cuối năm 1952–1954 Ông làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt huyện Nghĩa Hành, Ông có nhiều công lao đóng góp cho cách mạng và sự nghiệp giáo dục của tỉnh Quảng Ngãi trong thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.
          Có thể nói, ngôi nhà cổ của ông Tú Tiên rất có giá trị về lịch sử, văn hóa và kiến trúc. Đây là bằng chứng về nghệ thuật, kiến trúc trong xây dựng nhà của dân tộc ta nói chung và của nhân dân Quảng Ngãi nói riêng trong những năm đầu thế kỷ XX. Ngoài ra di tích này còn có giá trị rất lớn để nghiên cứu về thời gian hoạt động, làm việc của Hoàng thân Xuphanuvong, Chủ tịch Cayxon Phonvihan của nước bạn Lào.
          Với những giá trị nói trên, nhà cổ ông Tú Tiên cần phải gìn giữ và bảo vệ để cho các thế hệ biết đến kiến trúc nhà cổ xưa của cha ông đã dày công thiết kế và xây dựng./.

Bài&ảnh: Thanh Quang

Đọc thêm…
Comments
0 Comments